✨Steven Spielberg

Steven Spielberg

Steven Allan Spielberg (; sinh ngày 18 tháng 12 năm 1946) là một nam nhà làm phim người Mỹ gốc Do Thái. Ông bắt đầu sự nghiệp của mình trong kỷ nguyên New Hollywood và được đánh giá là một trong những nhà làm phim vĩ đại nhất trong lịch sử điện ảnh. Xuyên suốt sự nghiệp của mình, Spielberg đã nhận được nhiều giải thưởng khác nhau, bao gồm hai giải Oscar cho đạo diễn xuất sắc nhất, một giải danh dự của Trung tâm Kennedy và một giải thưởng Cecil B. DeMille. Phong cách đạo diễn và công nghệ làm phim của Spielberg được nhiều nhà phê bình đánh giá cao, thông qua việc sử dụng các cảnh quay phản chiếu, khuếch đại hiệu ứng thị giác, và sử dụng các cảnh quay cận cho các tình huống biểu lộ sự ngạc nhiên, thường được gọi bằng cái tên "Spielberg Face".

Spielberg sinh ra ở Cincinnati, Ohio và lớn lên ở Phoenix, Arizona, sau đó ông chuyển đến California và theo học chuyên ngành điện ảnh. Sau khi có được sự chú ý từ Hollywood với một số tác phẩm chiếu rạp nhỏ lẻ, Spielberg bắt đầu nổi lên sau khi dự án Hàm cá mập (1975) mà ông đóng vai trò đạo diễn được ra mắt, và giành được thành công lớn về mặt chuyên môn cũng như thương mại, đồng thời còn mở ra định nghĩa mới về phim bom tấn mùa hè. Các tác phẩm sau đó của ông chủ yếu đi theo thể loại khoa học viễn tưởng như Kiểu tiếp xúc thứ 3 (1977), loạt phim Indiana Jones, E.T. Sinh vật ngoài hành tinh (1982), và loạt phim Công viên kỷ Jura vốn được coi như nguyên mẫu của lối làm phim Hollywood theo trường phái thoát ly.

Spielberg sau đó chuyển sang đào sâu về chủ nghĩa nhân văn trong các tác phẩm điện ảnh tiếp theo của sự nghiệp, được thể hiện rõ nhất qua The Color Purple (1985), Đế chế mặt trời (1987), Bản danh sách của Schindler (1993), Amistad (1997) và Giải cứu binh nhì Ryan (1998). Ông tiếp tục theo sát chủ đề này trong các dự án đầu thế kỷ 21, nổi bật là các bộ phim được đánh giá cao về mặt chuyên môn như Munich (2005), Lincoln (2012), Người đàm phán (2015) và Bí mật Lầu Năm Góc (2017). Nối tiếp thành công, ông cho ra mắt các tác phẩm khác bao gồm Ready Player One: Đấu trường ảo (2018), Câu chuyện phía Tây (2021) và The Fabelmans: Tuổi trẻ huy hoàng (2022).

Ngoài công tác đạo diễn điện ảnh, Steven Spielberg còn là đồng sáng lập của hai hãng phim Amblin Entertainment và DreamWorks, tại đây ông cũng đảm nhận cương vị sản xuất cho nhiều phim truyền hình và phim dài tập. Ngoài ra, Spielberg cũng được biết đến vì sự hợp tác lâu dài với nhà soạn nhạc John Williams, người làm việc với ông trong tất cả tác phẩm điện ảnh ngoại trừ năm bộ phim truyện của mình. Một vài bộ phim do ông đạo diễn nằm trong số những tác phẩm điện ảnh ăn khách nhất lịch sử, đồng thời ông cũng là đạo diễn có doanh thu phim cao nhất mọi thời đại. Được biết, tài sản của Spielberg có giá trị lên đến hơn 3 tỉ USD. trong một gia đình Do Thái. Mẹ ông, Leahanni (nhũ danh Posner, sau này là Adler; 12 tháng 1 năm 1920 - 21 tháng 2 năm 2017), là một nghệ sĩ đàn dương cầm, còn bố ông, Arnold Spielberg (sinh năm 1917 - 26 tháng 8 năm 2020), là một kỹ sư chuyên ngành kỹ thuật điện. Ông bà nội của Spielberg đều là người Ukraine gốc Do Thái, đã định cư ở Cincinnati vào những năm 1900; bà của Spielberg đến từ Sudylkiv, trong khi người ông của vị đạo diễn thì xuất thân từ Kamianets-Podilskyi. Năm 1950, gia đình Spielberg chuyển đến thị trấn Haddon, New Jersey, khi bố ông làm việc tại công ty RCA. Ba năm sau, họ lại tiếp tục chuyển đến thành phố Phoenix thuộc bang Arizona. Sau đó Spielberg theo học trường dạy tiếng Do Thái từ năm 1953 đến 1957, trong các lớp học do Rabbi Albert L. Lewis giảng dạy.

Khi còn là một đứa trẻ, Spielberg phải đối mặt với khó khăn trong việc trở thành một người Do Thái chính thống vì nhận thức của những người bạn mà ông chơi cùng. "Đó không phải là điều tôi muốn thừa nhận," vị đạo diễn giải bày, "Nhưng khi tôi lên 7, 8, 9 tuổi, lạy Chúa tha thứ cho tôi, tôi bắt đầu thấy xấu hổ vì chúng tôi là người Do Thái. Tôi đã bối rối trước những nhận thức thiển cận của mọi người về các phong tục Do Thái của cha mẹ tôi. Tôi không bao giờ hối hận khi là người Do Thái, nhưng đôi lúc tôi cũng cảm thấy khó chịu." Spielberg cũng nói rằng ông phải chịu đựng những hành vi định kiến và bị bắt nạt: "Ở trường trung học, tôi bị đánh và đá. Hai lỗ mũi tôi lúc nào cũng toàn là máu. Điều đó thật kinh khủng." Năm 12 tuổi, ông thực hiện bộ phim đầu tiên tại nhà bằng mô hình đồ chơi Lionel, với nội dung chính là một vụ tai nạn tàu hỏa. Trong suốt thời niên thiếu, và sau khi vào cấp ba, Spielberg tiếp tục làm những bộ phim nghiệp dư 8 mm đề tài "mạo hiểm" với bạn bè.

Vào năm 1958, ông trở thành một hướng đạo sinh và nhận được giải thưởng Distinguished Eagle Scout Award, nhờ thực hiện một bộ phim dài 8 phút có tựa đề Cuộc đấu súng cuối cùng. Nhiều năm sau, Spielberg nhớ lại: "Máy ảnh tĩnh của bố tôi bị hỏng, thế nên tôi đã hỏi người hướng đạo xem tôi có thể kể chuyện bằng máy quay phim của bố tôi được hay không. Ông ấy nói có, và tôi nảy ra ý tưởng cho một bộ phim. Tôi đã làm nó và nhận được bằng khen của mình. Đó là cách mà mọi thứ bắt đầu." Năm 13 tuổi, khi sống ở Phoenix, Spielberg đã giành giải thưởng đầu tiên nhờ một bộ phim 40 phút đề tài "chiến tranh" mà ông đặt tên là Escape to Nowhere, với dàn diễn viên gồm những bạn học của ông. Điều đó đã thúc đẩy ông làm thêm 15 bộ phim nghiệp dư 8 mm khác.

Một số tác phẩm mà nhà làm phim nói rằng có ảnh hưởng lớn với ông là King of the Monsters (1956), mà ông gọi là "bậc thầy của tất cả các bộ phim về khủng long bởi vì nó khiến bạn tin rằng nó đã thực sự xảy ra", cũng như Captains Courageous (1937), Pinocchio (1940), và đặc biệt là Lawrence xứ Ả Rập (1962), tác mà vị đạo diễn nói rằng "đã đưa tôi vào cuộc hành trình của mình". Năm 1963, ở tuổi 16, Steven Spielberg đã viết và đạo diễn tác phẩm độc lập đầu tiên của mình, một bộ phim phiêu lưu khoa học viễn tưởng dài 140 phút có tên Firelight, đã tạo cảm hứng cho tác phẩm sau này của Spielberg là Close Encounters of the Third Kind. Firelight với ngân sách 500 USD đã được chiếu ở một rạp địa phương và thu về 501 USD. Một nhà báo ở thành phố Phoenix khi đó đã viết rằng cậu học sinh Spielberg sau này có thể làm được những tác phẩm lớn.

Sau khi theo học tại trường trung học Arcadia ở Phoenix trong ba năm, gia đình ông tiếp tục chuyển đến Saratoga, California, và đã tốt nghiệp trường trung học tại thị trấn này vào năm 1965. Sau khi bố mẹ ly dị, Steven Spielberg chuyển đến tiểu bang California ở với bố, trong khi ba em gái và bà mẹ vẫn ở lại Arizona. Mục tiêu lâu dài của ông là trở thành một đạo diễn phim. Tại đây, Spielberg đăng ký vào trường điện ảnh truyền hình của Đại học Nam California nhưng lại không được nhận, vì chỉ tốt nghiệp cấp ba với điểm trung bình loại C. Cuối cùng, Spielberg vào học tại Đại học California tại Long Beach để tránh phải đi lính trong Chiến tranh Việt Nam. Năm 1968, ông làm bộ phim ngắn đầu tiên để chiếu rạp, đó là tác phẩm dài 26 phút với tựa đề Amblin', do ông chắp bút kiêm đạo diễn. Sidney Sheinberg, người sau đó trở thành phó chủ tịch của Universal đã rất ấn tượng với bộ phim và đề nghị Spielberg ký hợp đồng bảy năm. Ngay lập tức Spielberg trở thành đạo diễn trẻ nhất trong lịch sử được ký hợp đồng dài hạn với một trong những hãng phim lớn ở Hollywood. Ông đã bỏ học và bắt đầu sự nghiệp đạo diễn chuyên nghiệp ở Universal. Spielberg sau đó quay lại Đại học bang California, Long Beach và hoàn thành bằng cử nhân về Nghệ thuật Điện ảnh và Điện tử năm 2002.

Sự nghiệp

Thập niên 1970

Công việc đầu tiên của Spielberg ở hãng truyền hình của Universal là thực hiện một phần cho kịch bản phim truyền hình Night Gallery trong tập phim Eyes, được biên kịch bởi Rod Serling và có sự tham gia của Joan Crawford. Crawford, lúc đó đã "không nói nên lời, rồi sau đó sửng sốt" khi nghĩ về một người chỉ mới hai mươi mốt tuổi sẽ chỉ đạo bà, một trong những ngôi sao hàng đầu của Hollywood. "Tại sao điều này lại xảy ra với tôi?" Crawford hỏi nhà sản xuất. Tuy nhiên sau khi thực hiện các cảnh quay, thái độ của nữ diễn viên dần thay đổi:

Crawford và Spielberg trở thành bạn thân với nhau cho đến khi bà qua đời. Sau này, Spielberg được làm một tập phim truyền hình thực sự, đó là tập L.A. 2017 trong loạt phim Name of the Game. Tập phim khoa học viễn tưởng này đã gây ấn tượng với Universal và họ ký hợp đồng ngắn hạn với Spielberg. Ông đã chỉ đạo một phân cảnh khác trong Night Gallery và đạo diễn một số bộ phim truyền hình như Owen Marshall: Counselor at lawThe Psychiatrist, trước khi phát hành tập đầu tiên của Columbo.

Ngoài ra, nhà làm phim còn thực hiện ba bộ phim chiếu trên truyền hình, Duel, Something EvilSavage. Bộ phim dài chiếu rạp đầu tiên của ông là The Sugarland Express, có nội dung là một đôi vợ chồng bị cảnh sát săn đuổi vì họ cố giành lại quyền nuôi dưỡng con của mình. Dựa trên một câu chuyện có thật, bộ phim đánh dấu sự hợp tác đầu tiên với nhà soạn nhạc John Williams; vị đạo diễn đã rất ấn tượng với các bản nhạc phim trước của ông. Những cảnh săn đuổi trong tác phẩm được giới phê bình đánh giá cao, và tờ The Hollywood Reporter nhận xét là "Một đạo diễn mới nổi, một tài năng đang lên". King KongSuperman, Spielberg và diễn viên Richard Dreyfuss tái hợp trong một bộ phim mới sản xuất năm 1977, nói về những vật thể bay không xác định có tên Kiểu tiếp xúc thứ 3. Trong quá trình quay phim, Spielberg đã sử dụng cuộn phim 65 mm để mang lại chất lượng hình ảnh tốt nhất, cùng với hệ thống ghi âm live-action mới để các bản ghi âm có thể được nhân bản sau này. Là một trong số ít phim Spielberg vừa viết kịch bản vừa đạo diễn, Close Encounters đã trở thành một sản phẩm ăn khách và đem lại cho ông đề cử đầu tiên ở giải Oscar cho Đạo diễn xuất sắc nhất. Rốt cuộc, tác phẩm đã mang về hai giải Oscar cho quay phim và hiệu ứng âm thanh.. Spielberg đã xem lại dự án Close Encounters của mình và, với sự hỗ trợ tài chính từ Columbia Pictures, ông phát hành Close Encounters: The Special Edition vào năm 1980. Trong phiên bản này, Spielberg đã sửa một số lỗi ở bản gốc năm 1977 và bổ sung thêm một số cảnh quay (chủ yếu là tình mẫu tử ở cuối phim). Tuy nhiên, bản làm lại chỉ là một thành công vừa phải, trong khi việc phát hành đĩa DVD năm 2001 mới khôi phục lại kết thúc ban đầu.

Thành công của Steven Spielberg với các bộ phim thương mại lại làm giới phê bình coi thường những tác phẩm tiếp theo của ông. Bộ phim tiếp theo của Spielberg là 1941, một tác phẩm tốn kém về đề tài Chiến tranh thế giới thứ 2 nhưng lại bị cả giới phê bình lẫn người xem chê bai (mặc dù phim đã thu về 92,4 triệu USD trên toàn thế giới và đã kiếm được một khoản lợi nhuận nhỏ cho các hãng phim đồng sản xuất Columbia và Universal). Một nhà phê bình viết rằng 1941 không chỉ đơn thuần là một sự sỉ nhục ngớ ngẩn đối với bất kỳ chủng tộc, giới tính hoặc thế hệ cụ thể nào — mà nó khơi mào cuộc chiến chống lại toàn nhân loại."

Thập niên 1980

Ngay sau đó, Spielberg đã hợp tác cùng tác giả của loạt phim Chiến tranh giữa các vì sao là George Lucas để làm Indiana Jones và chiếc rương thánh tích, phần đầu tiên của bộ ba Indiana Jones do diễn viên Harrison Ford thủ vai tiến sĩ khảo cổ Indiana Jones. Tác phẩm được coi là một sự tri ân đối với những sê-ri cliffhanger của Thời hoàng kim ở Hollywood. Indiana Jones và chiếc rương thánh tích được quay ở Bắc Phi và quá trình ghi hình diễn ra rất khó khăn nhưng Spielberg nói rằng kinh nghiệm đó đã giúp ông có được sự nhạy bén trong. Tác phẩm đã trở thành bộ phim ăn khách nhất năm 1981 và gặt hái được một vài đề cử giải Oscar, trong đó có Đạo diễn xuất sắc thứ hai cho Spielberg, cùng Phim hay nhất (bộ phim thứ hai của ông được đề cử giải này). Cho đến ngày nay, tác phẩm này vẫn được coi như một bước ngoặt của thể loại phim hành động. Với vai diễn Indiana Jones, Ford cũng đã nhận được những lời mời cho nhiều dự án khác nhau (một trong số đó là bộ phim nổi tiếng Blade Runner của Ridley Scott).

Một năm sau, Spielberg trở lại với đề tài khoa học viễn tưởng quen thuộc với tác phẩm E.T. Sinh vật ngoài hành tinh, khắc họa tình bạn giữa một cậu bé và một người ngoài hành tinh đang cố gắng quay trở về nhà trong vũ trụ. E.T. được công chiếu lần đầu tại Liên hoan phim Cannes năm 1982 và làm khán giả phản ứng một cách mê ly; nhà sản xuất Kathleen Kennedy nhớ lại, "Bạn không thể nghe thấy đoạn cuối của bộ phim bởi vì mọi người đang dậm chân tại chỗ và la hét [...] Đó là một trong những trải nghiệm tuyệt vời nhất." E.T. đã trở thành bộ phim ăn khách nhất mọi thời đại (kỷ lục này chỉ bị phá vỡ bởi Công viên kỷ Jura, một tác phẩm khác của Spielberg). Ngoài ra phim còn được đề cử rất nhiều giải Oscar, trong đó có Phim hay nhấtĐạo diễn xuất sắc nhất (đề cử thứ ba của Spielberg), rồi giành được bốn giải trong số đó. Trong khoảng thời gian từ năm 1982 - 1985, Spielberg đã sản xuất nhiều tác phẩm ăn khách khác là Poltergeist (đồng biên kịch), Twilight Zone (chỉ đạo phân đoạn "Kick The Can") cũng như The Goonies (chỉ đạo sản xuất, ngoài ra ông cũng đã viết một câu chuyện dựa trên kịch bản bộ phim). Hơn nữa, vị đạo diễn cũng xuất hiện với tư cách khách mời trên một video âm nhạc của Cyndi Lauper cho bài hát chủ đề của bộ phim, "The Goonies 'R' Good Enough".

nhỏ|upright=0.9|phải|Steven Spielberg và [[Chandran Rutnam tại một địa điểm ở Sri Lanka trong quá trình quay phim Indiana Jones và Ngôi đền tàn khốc..]]

Spielberg và George Lucas sau đó cùng hợp tác để làm phần Indiana Jones tiếp theo với tựa đề Indiana Jones và Ngôi đền tàn khốc. Do phần phim này và Yêu tinh (đều được sản xuất bởi Spielberg) có yếu tố bạo lực cao trong khi nhắm vào đối tượng nhỏ tuổi, nên đã dẫn đến việc tạo ra hệ thống phân loại PG-13. Tuy nhiên, Ngôi đền tàn khốc lại được MPAA phân loại PG, mặc dù đây là phần phim đen tối và bạo lực nhất trong toàn bộ loạt phim. Ngoài ra, tác phẩm cũng là một thành công thương mại, tuy nhiên lại không được đánh giá cao như phần đầu. Chính trong dự án này, Spielberg cũng đã gặp người vợ tương lai của mình, nữ diễn viên Kate Capshaw.

Năm 1985, Spielberg cho ra mắt bộ phim Màu tím, chuyển thể từ quyển tiểu thuyết đoạt giải Pulitzer cùng tên của Alice Walker, xoay quanh một thế hệ phụ nữ gốc Phi và những vấn đề mà họ phải đối mặt trong thập niên 1900. Tác phẩm có sự tham gia của hai nữ diễn viên da màu sau này rất nổi tiếng là Whoopi Goldberg và Oprah Winfrey. Màu tím tương đối thành công về mặt doanh thu và được giới chuyên môn đánh giá cao, khi nhận xét Spielberg đã thành công với dòng phim chính kịch. Nhà phê bình phim Roger Ebert tuyên bố đây là bộ phim hay nhất năm rồi đưa vào "Thư viện phim ảnh" của mình. Phim cũng gặt hái 11 đề cử Oscar, trong đó có 2 đề cử cho Goldberg và Winfrey. Tuy nhiên, Spielberg lại không được đề cử giải Đạo diễn xuất sắc nhất.

Năm 1987, ngay khi Trung Quốc mở cửa với thế giới bên ngoài, Spielberg đã quay bộ phim Mỹ đầu tiên ở Thượng Hải kể từ thập niên 1930, Đế chế mặt trời, chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết tự truyện Empire of the Sun của J. G. Ballard, với sự tham gia diễn xuất của John Malkovich và Christian Bale. Tuy không thành công khi công chiếu ngoài rạp, bộ phim lại được giới phê bình khen ngợi và được đề cử một số giải Oscar. Nhà phê bình Andrew Sarris gọi đây là tác phẩm điện ảnh hay nhất của năm và sau đó đưa nó vào danh sách một trong những bộ phim xuất sắc nhất thập kỷ. Spielberg cũng là nhà đồng sản xuất bộ phim năm 1987 Batteries Not Included.

Năm 1989, Spielberg bắt tay vào làm phần 3 của loạt phim "Indiana Jones" với tựa đề Indiana Jones và Cuộc thập tự chinh cuối cùng. Một lần nữa ông hợp tác với Lucas và Ford, đồng thời cũng cho nam diễn viên Sean Connery vào một vai phụ trong phim, đó là bố của Indi. Bộ phim được đánh giá cao và trở thành phim có doanh thu cao nhất toàn cầu năm đó; tổng doanh thu phòng vé của nó thậm chí còn vượt qua cả Người Dơi rất được mong đợi của Tim Burton (mặc dù doanh thu nội địa lại không cao bằng). Đây được xem là phần kết tốt cho sê-ri Indiana Jones nổi tiếng.

Cũng trong năm 1989, ông tái hợp với nam diễn viên Richard Dreyfuss trong bộ phim hài kịch lãng mạn Always, nói về một phi công tìm cách dập tắt đám cháy rừng. Đây là bản làm lại hiện đại của một trong những bộ phim yêu thích thời thơ ấu của Spielberg, A Guy Named Joe năm 1943. Cốt chuyện của tác phẩm là do vị đạo diễn sáng tác, và ông nói rằng "Khi còn nhỏ, tôi đã rất thất vọng, và có lẽ tôi đã nhìn thấy cha mẹ của mình [trong A Guy Named Joe]. Tôi cũng có rất ít bạn gái, và điều đó đã gắn bó với tôi." Spielberg đã thảo luận về bộ phim với Dreyfuss vào năm 1975, và có tới tận 12 bản nháp được viết trước khi bắt đầu ghi hình tác phẩm. Mặc dù vậy, Always chỉ thành công vừa phải và vấp phải những ý kiến trái chiều. Janet Maslin của The New York Times bình luận, "Luôn tràn ngập những khoảnh khắc lớn lao và tình cảm, tác phẩm thiếu đi sự thân mật để làm nên bất kỳ điều gì cảm động."

Thập niên 1990

nhỏ|trái|Spielberg trong tháng 3 năm 1990

Vào năm 1991, Spielberg đạo diễn Hook, theo chân nhân vật Peter Pan ở độ tuổi trung niên do Robin Williams thủ vai. Mặc dù kịch bản bị thay đổi nhiều lần cùng với những ý kiến ​​trái chiều từ giới chuyên môn, bộ phim lại được khán giả yêu thích và thu về được hơn 300 triệu đô la trên toàn thế giới (so với kinh phí 70 triệu USD).

Năm 1993, đạo diễn Steven Spielberg đã cho ra đời hai bộ phim được đánh giá rất cao trong lịch sử điện ảnh. Tác phẩm đầu tiên thuộc thể loại khoa học giả tưởng và phiêu lưu quen thuộc của Spielberg, dựa theo cuốn tiểu thuyết của Michael Crichton có tên Công viên kỷ Jura, kể về những con khủng long ăn thịt người. Với những hiệu ứng hình ảnh mang tính cách mạng được làm bởi hãng Industrial Light and Magic của người bạn George Lucas, Công viên kỷ Jura đã trở thành bộ phim ăn khách nhất trong lịch sử điện ảnh Mỹ với doanh thu toàn cầu là 914,7 triệu USD. Đây là lần thứ ba một trong những tác phẩm của Spielberg trở thành phim có doanh thu cao nhất từ trước tới nay.

Bộ phim thứ hai của Spielberg trong năm này là Bản danh sách của Schindler, dựa trên câu chuyện có thật của nhà công nghiệp Oskar Schindler, người đã mạo hiểm tính mạng của mình để cứu sống 1.100 người Do Thái khỏi nạn diệt chủng Holocaust. Bản danh sách của Schindler đã mang lại cho Spielberg giải Oscar cho Đạo diễn xuất sắc nhất đầu tiên và cũng ẵm luôn giải Oscar cho Phim hay nhất. Sau thành công của bộ phim, Spielberg đã sử dụng nguồn vốn doanh thu phim để thành lập Shoah Foundation, một tổ chức phi lợi nhuận thu thập lời kể của những người sống sót sau thảm họa Holocaust. Một số nhà phê bình cho rằng bộ phim này là tác phẩm chân thực nhất về nạn diệt chủng người Do Thái và vào năm 1999, Viện phim Mỹ đã xếp bộ phim vào danh sách 10 tác phẩm vĩ đại nhất của điện ảnh Hoa Kỳ. nhỏ|phải|Spielberg nhận [[Giải Sư tử vàng bởi nhà làm phim người Ý Gillo Pontecorvo ở Liên hoan phim quốc tế Venezia lần thứ 50, 1993]]

Năm 1994, Steven Spielberg tạm dừng công việc đạo diễn để dành nhiều thời gian hơn cho gia đình và thành lập một xưởng phim mới, DreamWorks, cùng với đối tác Jeffrey Katzenberg và David Geffen. Năm 1996, ông chỉ đạo phần tiếp theo của Công viên kỷ Jura với tựa đề Thế giới bị mất: Công viên kỷ Jura, thu về hơn 618 triệu USD trên toàn thế giới mặc dù bị đánh giá ​​trái chiều, và là bộ phim có doanh thu cao thứ hai năm 1997, chỉ sau Titanic của James Cameron (đã vượt qua Công viên kỷ Jura để trở thành tác phẩm ăn khách nhất mọi thời đại).

Bộ phim tiếp theo của ông, Amistad, dựa trên một câu chuyện có thật (tương tự như Bản danh sách của Schindler), nói về một cuộc nổi loạn của nô lệ châu Phi. Mặc dù được giới phê bình khen ngợi, tuy nhiên phim lại không thành công về mặt thương mại. Amistad được phát hành bởi DreamWorks Pictures, hãng phim đã sản xuất tất cả các tác phẩm của ông kể từ Amistad trở đi, ngoại trừ Indiana Jones và Vương quốc sọ pha lê, Những cuộc phiêu lưu của TintinReady Player One: Đấu trường ảo.

Năm 1998, Spielberg cho ra đời tác phẩm về Chiến tranh thế giới thứ 2 có tên Giải cứu binh nhì Ryan, với sự tham gia diễn xuất của nam diễn viên Tom Hanks. Bộ phim kể về một nhóm lính Mỹ do Đại úy Miller (Tom Hanks) chỉ huy thực hiện sứ mạng giải cứu một lính nhảy dù có ba người anh bị giết trong vòng 24 giờ. Giải cứu binh nhì Ryan là một thành công lớn về thương mại khi thu về hơn 480 triệu USD trên toàn thế giới và là bộ phim có doanh thu cao nhất năm tại phòng vé Bắc Mỹ (trên toàn thế giới, phim đứng ở hạng hai sau Armageddon của Michael Bay). Đồng thời, ông cũng đã giành được giải Oscar Đạo diễn xuất sắc nhất thứ hai cho tác phẩm này. Những hình ảnh chân thực mô tả sự ác liệt của chiến tranh trong Giải cứu binh nhì Ryan đã ảnh hưởng tới nhiều phim lấy đề tài chiến tranh sau đó như Diều hâu gãy cánh hay Kẻ thù trước cổng. Đây cũng là tác phẩm lớn đầu tiên của Spielberg thực hiện cho hãng phim DreamWorks của ông. Sau đó, Spielberg và Tom Hanks đã sản xuất một bộ phim truyền hình ngắn tập dựa trên cuốn sách Band of Brothers của Stephen Ambrose. Loạt phim 10 tập theo chân những cựu binh của đại đội Easy thuộc Sư đoàn Lính dù 101. Band of Brothers đã gặt hái được một vài giải Quả cầu vàng cùng Emmy.

Thập niên 2000

Vào năm 2001, Steven đã thực hiện dự án cuối cùng của Stanley Kubrick, người bạn đã mất vào năm 1999, AI – Trí tuệ nhân tạo, bộ phim mà Kubrick không thể thực hiện cho đến lúc cuối đời. Lấy bối cảnh ở tương lai và kể về một android hình người có khả năng yêu thương, A.I. nổi bật với hiệu ứng hình ảnh đột phá và cốt truyện sâu sắc. Các nhà phê bình nghĩ rằng Spielberg chỉ đạo tác phẩm bằng "tình cảm", và Roger Ebert nhận định, "Đây là một trong những bộ phim đầy tham vọng nhất trong những năm gần đây [...] nhưng tác ph đã tính toán sai khi yêu cầu chúng ta dồn hết cảm xúc của mình vào một nhân vật, một cỗ máy." Mặc dù không thành công lắm ở Mỹ, nhưng tác phẩm đã có màn ra mắt thuận lợi hơn ở nước ngoài với tổng doanh thu phòng vé trên toàn thế giới là 236 triệu USD.

Spielberg và nam diễn viên Tom Cruise hợp tác lần đầu trong Minority Report, dựa trên truyện ngắn của Philip K. Dick nói về một thanh tra ở Washington DC vào năm 2054, được dự đoán sẽ giết một người mà anh không hề quen biết. Bộ phim nhận được những lời khen ngợi trên trang web Rotten Tomatoes khi có tỉ lệ đồng thuận 92%, với 206 trong số 225 đánh giá mà họ cho là tích cực. Minority Report đã thu về hơn 358 triệu USD trên toàn thế giới. Nhà phê bình Roger Ebert đã gọi đây là tác phẩm hay nhất năm 2002, ca ngợi tầm nhìn ngoạn mục của phim về thế giới tương lai cũng như cách mà Spielberg pha trộn giữa CGI với live-action.

Bộ phim Hãy bắt tôi nếu có thể năm 2002 của Spielberg dựa trên câu chuyện có thật của siêu lừa đảo trẻ nhất nước Mỹ - Frank Abagnale (do Leonardo DiCaprio thủ vai). Tác phẩm đã mang về cho Christopher Walken một đề cử giải Oscar cho Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất. Phim được biết đến với phần nhạc nền của John Williams cũng như chuỗi tiêu đề độc đáo. Đây được xem là một bom tấn cả về mặt phòng vé lẫn chuyên môn.

Steven Spielberg lại bắt tay với Tom Hanks, Catherine Zeta-Jones và Stanley Tucci trong The Terminal năm 2004, một tác phẩm hài tình cảm nói về một người đàn ông gốc Đông Âu buộc phải sống 9 tháng trong phòng chờ sân bay. Tuy bị đánh giá trái chiều nhưng bộ phim lại tương đối thành công về doanh thu. Năm 2005, tạp chí Empire đã xếp Spielberg đứng thứ nhất trong danh sách những đạo diễn vĩ đại nhất mọi thời đại.

Vào năm 2005, vị đạo diễn làm lại bộ phim Đại chiến thế giới (đồng sản xuất giữa Paramount và DreamWorks) dựa theo tiểu thuyết Chiến tranh giữa các thế giới của H. G. Wells. Phim có sự tham gia của ngôi sao điện ảnh Tom Cruise cùng với Dakota Fanning, và, giống như các bộ phim của ông trước đây, phần hiệu ứng được thực hiện bởi Industrial Light & Magic (ILM). Khác với E.TKiểu tiếp xúc thứ 3 nói về người ngoài hành tinh thân thiện, Đại chiến thế giới lại có cốt truyện tập trung vào những kẻ xâm lược. Vị đạo diễn cũng sử dụng kịch bảng phân cảnh để giúp các diễn viên phản ứng với hình ảnh máy tính mà họ không thể nhìn thấy, đồng thời sử dụng ánh sáng tự nhiên và kỹ thuật quay phim để tránh tạo ra một bức tranh khoa học viễn tưởng "quá cách điệu". Đại chiến thế giới là một thành công phòng vé khi thu về 234 triệu USD (chỉ tính riêng ở thị trường Hoa Kỳ) và hơn 600 triệu USD trên toàn thế giới.

nhỏ|Hậu trường vụ tai nạn máy bay trong Đại chiến thế giới

Bộ phim Munich của Spielberg, kể về các sự kiện sau vụ thảm sát ở Munich năm 1972 tại Thế vận hội Olympic, là tác phẩm thứ hai của ông lấy đề tài người Do Thái (đầu tiên là Bản danh sách của Schindler). Phim dựa trên Vengeance, một cuốn sách của nhà báo người Canada George Jonas. Trước đây, quyển sách này đã được chuyển thể thành một tác phẩm chiếu trên TV năm 1986, Sword of Gideon. Spielberg, người luôn nhớ về vụ việc, đã tìm kiếm lời khuyên từ cựu Tổng thống Bill Clinton (cùng với những người khác) trước khi thực hiện bộ phim vì ông không muốn làm dấy thêm vấn đề ở Trung Đông. Mặc dù Munich nhận được hầu hết các đánh giá tích cực, nhưng một số nhà phê bình lại coi tác phẩm là bài Do Thái; ngoài ra đây cũng là một trong những bộ phim gây tranh cãi nhất của Spielberg tính đến thời điểm hiện tại. Munich đã nhận được năm đề cử giải Oscar, bao gồm Phim hay nhất, Biên tập phim xuất sắc nhất, Nhạc phim hay nhất (John Williams), Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất và Đạo diễn xuất sắc nhất cho Spielberg. Nhờ tác phẩm này, ông đã nhận được đề cử Đạo diễn xuất sắc thứ sáu và Phim hay nhất thứ năm trong sự nghiệp.

Steven Spielberg chỉ đạo Indiana Jones và Vương quốc sọ pha lê, đóng máy vào tháng 10 năm 2007 và được phát hành chính thức vào ngày 22 tháng 5 năm 2008. Đây là bộ phim đầu tiên của ông không được DreamWorks phát hành kể từ năm 1997. Phim đã nhận được những đánh giá hỗn tạp từ giới phê bình, nhưng nói chung là tích cực, và thành công lớn về mặt tài chính khi mang về 786 triệu USD trên toàn thế giới. Đây cũng là phần phim có doanh thu cao nhất trong nhượng quyền thương mại.

Thập niên 2010

Đầu năm 2009, Spielberg quay bộ phim hoạt hình đầu tiên dựa trên Những cuộc phiêu lưu của Tintin, được viết bởi họa sĩ người Bỉ Hergé, cùng với Peter Jackson. Những cuộc phiêu lưu của Tintin: Bí mật tàu Kỳ Lân bị lùi lịch phát hành cho đến tận tháng 10 năm 2011, do sự phức tạp của công nghệ hoạt hình máy tính. Buổi ra mắt phim trên thế giới diễn ra vào ngày 22 tháng 10 năm 2011 tại Brussels, Bỉ. Tác phẩm được phát hành tại các cụm rạp Bắc Mỹ vào ngày 21 tháng 12 năm 2011, dưới định dạng Digital 3D và IMAX. Nó đã nhận được những đánh giá tích cực từ các nhà phê bình, và thu về hơn 373 triệu USD trên toàn thế giới. Những cuộc phiêu lưu của Tintin đã giành giải Phim hoạt hình hay nhất tại Giải Quả cầu vàng năm đó. Đây là bộ phim đầu tiên không phải của Pixar giành được hạng mục này kể từ khi nó được giới thiệu. Jackson đã được xác nhận sẽ chỉ đạo phần phim tiếp theo.

Steven Spielberg cho ra mắt tác phẩm Chiến mã, được quay ở Anh vào mùa hè năm 2010. Nó được phát hành chỉ bốn ngày sau khi Những cuộc phiêu lưu của Tintin được công chiếu, vào ngày 25 tháng 12 năm 2011. Bộ phim, dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên được sáng tác bởi Michael Morpurgo và xuất bản năm 1982, kể về tình bạn lâu dài giữa một cậu bé người Anh và chú ngựa Joey trước và trong Thế chiến I. Tiểu thuyết cũng được chuyển thể thành một vở kịch ăn khách ở Luân Đôn, cũng như trên sân khấu Broadway. Chiến mã là tác phẩm đầu tiên trong số bốn bộ phim Spielberg liên tiếp được phát hành bởi Disney. Phim nhận được những lời tán dương từ giới phê bình, và được đề cử sáu giải Oscar, trong đó có Phim hay nhất.

Spielberg tiếp theo thực hiện tác phẩm chính kịch lịch sử Lincoln, với sự tham gia của Daniel Day-Lewis thủ vai Tổng thống Hoa Kỳ Abraham Lincoln và Sally Field trong vai phu nhân Mary Todd Lincoln. Dựa trên Team of Rivals: The Political Genius of Abraham Lincoln của Doris Kearns Goodwin, bộ phim kể về bốn tháng cuối đời của Lincoln. Phim do Tony Kushner chắp bút và được quay tại Richmond, Virginia vào cuối năm 2011, và phát hành tại Hoa Kỳ vào tháng 11 năm 2012. Khi ra mắt, Lincoln nhận được nhiều lời khen ngợi từ các nhà phê bình, và gặt hái được 12 đề cử giải Oscar (nhiều nhất trong số các phim năm đó), bao gồm Phim hay nhấtĐạo diễn xuất sắc nhất. Nó đã chiến thắng hạng mục Thiết kế sản xuất xuất sắc nhất và Nam diễn viên xuất sắc nhất cho Day-Lewis với vai diễn Lincoln.

Spielberg dự định chỉ đạo bộ phim về cuộc đời của xạ thủ bắn tỉa Mỹ Chris Kyle, có tựa đề Lính bắn tỉa Mỹ, theo một thông tin được công bố ngày 2 tháng 5 năm 2013. Tuy nhiên, vào ngày 5 tháng 8 năm 2013, Spielberg đã quyết định không chỉ đạo tác phẩm mà thay vào đó là đạo diễn Clint Eastwood.

nhỏ|trái|Spielberg quảng bá bộ phim [[Ready Player One: Đấu trường ảo (2018) tại Nhật Bản.]]

Spielberg sau đó đạo diễn Người đàm phán, một bộ phim chính kịch Chiến tranh Lạnh dựa trên sự cố U-2 năm 1960, và tập trung vào các cuộc đàm phán của James B. Donovan với Liên Xô để thả phi công Gary Powers sau khi máy bay của anh ta bị bắn rơi trên lãnh thổ Liên Xô. Tác phẩm có sự góp mặt của Tom Hanks trong vai Donovan, cũng như Mark Rylance, Amy Ryan và Alan Alda, với phần kịch bản do anh em nhà Coen chắp bút. Bộ phim được ghi hình từ tháng 9 đến tháng 12 năm 2014 tại các địa điểm ở thành phố New York, Berlin và Wroclaw, Ba Lan, và được phát hành vào ngày 16 tháng 10 năm 2015. Người đàm phán nhận được sự tán dương từ các nhà phê bình, và tranh sáu giải Oscar năm đó, bao gồm Phim hay nhất; Rylance đã giành giải Oscar cho nam diễn viên phụ xuất sắc nhất, trở thành diễn viên thứ hai giành chiến thắng trong một tác phẩm của Spielberg.

Spielberg đã lên kế hoạch quay một bộ phim chuyển thể có kinh phí 200 triệu USD từ tiểu thuyết Robopocalypse của Daniel H. Wilson, được chuyển thể điện ảnh bởi Drew Goddard. Giống như Lincoln, tác phẩm sẽ được phát hành bởi Disney ở Hoa Kỳ và Fox Film Corporation ở các thị trường bên ngoài. Tuy nhiên, Spielberg lại hoãn sản xuất vô thời hạn vào tháng 1 năm 2013. Vào tháng 3 năm 2018, có thông báo rằng bộ phim sẽ do Michael Bay làm đạo diễn.

Chuyện chưa kể ở xứ sở khổng lồ của Spielberg là tác phẩm chuyển thể từ câu chuyện thiếu nhi nổi tiếng của Roald Dahl, với sự tham gia của "tân binh" Ruby Barnhill cùng với Rylance trong vai Người khổng lồ thân thiện. DreamWorks đã mua bản quyền nguyên tác vào năm 2010, và ban đầu John Madden dự định sẽ chỉ đạo bộ phim. Chuyện chưa kể ở xứ sở khổng lồ là tác phẩm cuối cùng được viết bởi nhà biên kịch E.T Melissa Mathison trước khi bà qua đời vào năm 2015. Phim được Walt Disney Pictures hợp tác sản xuất và phát hành, đánh dấu tác phẩm đầu tiên mang thương hiệu Disney do Spielberg làm đạo diễn. Phim ra mắt không cạnh tranh tại Liên hoan phim Cannes vào ngày 14 tháng 5 năm 2016 và được phát hành rộng rãi ở Mỹ vào ngày 1 tháng 7 năm 2016. Tác phẩm kể lại sự kiện tờ The Washington Post xuất bản tập tài liệu Pentagon Papers, qua đó giúp phanh phui những bí mật của chính phủ Mỹ trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam hồi đầu thập niên 1970. Quá trình sản xuất bắt đầu tại thành phố New York vào ngày 30 tháng 5 năm 2017. Spielberg tuyên bố sức hút của ông đối với dự án: "Khi tôi đọc bản thảo đầu tiên của kịch bản, đây không phải là thứ có thể đợi trong ba hoặc hai năm — đây là câu chuyện mà tôi cảm thấy chúng ta cần phải kể ngay hôm nay." Phim được công chiếu giới hạn vào ngày 22 tháng 12 năm 2017 trước khi phát hành rộng rãi vào ngày 12 tháng 1 năm 2018. Tác phẩm đã gặt hái được sự đón nhận rộng rãi từ nhiều phía; nhà phê bình thuộc Associated Press cho rằng "Spielberg đã truyền sự căng thẳng, cuộc sống và sự hùng vĩ của những điều bình thường vào các cảnh phim — những điều ông ấy truyền đạt rất giỏi."

Đạo diễn thực hiện bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết khoa học viễn tưởng cùng tên Ready Player One: Đấu trường ảo của Ernest Cline. Tác phẩm có sự góp mặt của Tye Sheridan, Olivia Cooke, Ben Mendelsohn, Simon Pegg và Mark Rylance, với nội dung diễn ra vào năm 2045, khi phần lớn nhân loại sử dụng công nghệ thực tế ảo để thoát khỏi thế giới thực. Tác phẩm bắt đầu sản xuất tại Luân Đôn vào tháng 7 năm 2016, một năm trước The Post. Phim được thu hình, chỉnh sửa và phát hành trong thời gian dài về hiệu ứng. Ready Player One ban đầu dự kiến ​​sẽ phát hành vào ngày 15 tháng 12 năm 2017 bởi Warner Bros., nhưng đã bị đẩy lùi đến ngày 29 tháng 3 năm 2018 để tránh cạnh tranh với Star Wars: Jedi cuối cùng. Phim đã được chiếu tại liên hoan phim South by Southwest, vào ngày 11 tháng 3 năm 2018. Một số nhà phê bình tỏ ra thích thú với những cảnh hành động, nhưng cho rằng bộ phim quá dài và lạm dụng những tình tiết hoài niệm quá nhiều.

Thập niên 2020

Spielberg còn cho ra mắt bộ phim Câu chuyện phía Tây, được chuyển thể từ tác phẩm cùng tên năm 1961. Biên kịch Tony Kushner tuyên bố vào tháng 7 năm 2017 rằng ông đã thay đổi một số chi tiết cho Spielberg, ngoại trừ phần nhạc kịch, cũng như bối cảnh cuối những năm 1950. Bộ phim được Fox phát hành vào ngày 10 tháng 12 năm 2021.

Gần đây nhất, Spielberg đã cho ra mắt bộ phim The Fabelmans: Tuổi trẻ huy hoàng, bộ phim bán tiểu sử được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời của ông, và được Universal Pictures phát hành vào ngày 24 tháng 11 năm 2022.

Dự án sắp tới

Steven Spielberg đã lên kế hoạch quay tác phẩm chuyển thể từ dự án Vụ bắt cóc Edgardo Mortara của David Kertzer vào đầu năm 2017, và dự định sẽ phát hành vào cuối năm đó, nhưng việc sản xuất đã bị hoãn lại. Cuốn sách kể về câu chuyện có thật của một cậu bé người Do Thái năm 1858 ở Ý, đã bị người hầu trong gia đình bí mật rửa tội và sau đó bị bắt cóc khỏi gia đình bởi các Giáo hoàng, nơi cậu được nuôi dưỡng và đào tạo như một linh mục, gây phẫn nộ cho dư luận quốc tế và trở thành một thông tin chấn động. Mark Rylance, trong lần hợp tác thứ tư với Spielberg, đã tuyên bố sẽ đóng vai chính Giáo hoàng Pius IX. Oscar Isaac được chọn vào vai cha của Mortara, nhưng sau đó lại từ chối. Spielberg đã gặp khó khăn trong việc tìm kiếm diễn viên đóng vai cậu bé Do Thái, mặc dù đã có hơn 2000 đứa trẻ thử vai.

Spielberg sẽ chỉ đạo một tác phẩm chuyển thể từ cuốn hồi ký của phóng viên ảnh người Mỹ Lynsey Addario, có tựa đề là It's What I Do. Nữ diễn viên Jennifer Lawrence đã được hãng Warner Bros. thuyết phục thành công để tham gia dự án này.

Spielberg sẽ điều hành sản xuất Cortes, một miniseries lịch sử do Steven Zaillian chắp bút, kể về cuộc chinh phục đế chế Aztec của người Tây Ban Nha, cũng như mối quan hệ của Hernán Cortés với người cai trị Aztec Montezuma. Kịch bản của phim dựa trên một kịch bản có từ từ năm 1965 của Dalton Trumbo, người từng đoạt giải Oscar. Javier Bardem dự kiến sẽ đóng vai chính Hernán Cortés. Spielberg trước đây đã từng gắn bó với việc chỉ đạo dự án dưới dạng một bộ phim điện ảnh.

Vào tháng 4 năm 2018, Spielberg xác nhận đạo diễn bộ phim chuyển thể từ loạt truyện tranh Blackhawk. Warner Bros Pictures sẽ phát hành bộ phim, với phần kịch bản do David Koepp chắp bút. Trong một cuộc phỏng vấn vào năm 1981 để quảng bá cho Chiếc rương thánh tích, Spielberg đã ví tác phẩm với loạt truyện Blackhawk.

Dự án đang chờ

Vào năm 2009, Spielberg được cho là đã cố gắng giành lấy bản quyền chuyển thể sê-ri Halo của Microsoft thành phim. Vào tháng 9 năm 2008, Steven Spielberg đã mua bản quyền tiểu thuyết Chocky của John Wyndham và dự định sẽ thực hiện nó. Ông cũng quan tâm đến việc chuyển thể A Steady Rain, Pirate Latitudes, 39 Clues, và bản làm lại của When Worlds Collide.

Vào tháng 5 năm 2009, Steven Spielberg đã mua bản quyền về câu chuyện cuộc đời của Martin Luther King. Spielberg sẽ tham gia bộ phim không chỉ với tư cách nhà sản xuất mà còn đảm nhiệm vai trò đạo diễn. Tuy nhiên, bản quyền câu chuyện được thực hiện từ di sản của King, do con trai Dexter dẫn đầu, trong khi hai người con còn sống khác là Reverend Bernice và Martin III ngay lập tức đe dọa sẽ kiện và không chấp thuận dự án của họ.

Phong cách làm phim

Spielberg thường sử dụng kịch bản phân cảnh để hình dung ra các cảnh quay, nhưng cũng có những trường hợp ngoại lệ như E.T.The Color Purple. Spielberg thích thu hình với tốc độ nhanh, phạm vi bao quát lớn (từ thiết lập quay một lần đến nhiều lần), vì vậy ông sẽ có nhiều lựa chọn trong phòng chỉnh sửa. Từ khi bắt đầu sự nghiệp, phong cách quay của Spielberg bao gồm các góc máy cực cao và cực thấp, cộng với những cú máy dài và cầm tay. Vị đạo diễn cũng ủng hộ việc sử dụng ống kính góc rộng để tạo chiều sâu, và vào thời điểm ông thực hiện Bản báo cáo thiểu số, Spielberg tự tin hơn với các chuyển động máy quay phức tạp.

Trong một cuộc phỏng vấn với The Tech vào năm 2015, Spielberg đã mô tả cách mà ông chọn dự án để thực hiện:

[Đôi khi], tôi lại bị cuốn hút bởi một câu chuyện nào đó, trong khi các đồng nghiệp và đối tác của tôi thì lại không nghĩ vậy. Họ chỉ nhìn tôi, gãi đầu rồi nói, 'Ồ, anh có chắc với quyết định đó chứ?' Tôi thích cái cách mà mọi người thách thức tôi theo kiểu đó, vì nó là một bài kiểm tra thực sự về niềm tin của chính tôi và [liệu] tôi có thể trở thành người đàn ông đứng vững trong cuộc đời mình, đứng về một chủ đề có thể không phổ biến hay không; dù thế nào đi nữa, điều đó vẫn sẽ khiến tôi ngày càng tự hào về công việc của mình. Ngoài ra, có khá nhiều câu hỏi đã khiến tôi phải trả lời rằng, 'Vâng, tôi sẽ chỉ đạo nó.'

Cộng tác viên

Janusz Kamiński là người phụ trách khâu ghi hình trong 19 bộ phim của Spielberg. Khi Spielberg bắt đầu chuyển mình từ dòng phim hành động sang chính kịch, ông và Kamiński đã áp dụng nhiều kỹ thuật quay phim cầm tay hơn, bằng chứng là trong Bản danh sách của SchindlerAmistad. Michael Khan đã biên tập tất cả các phim của Spielberg (ngoại trừ một tác phẩm) kể từ những năm 1970. Đạo diễn cũng đã làm việc liên tục với nhà thiết kế sản xuất Rick Carter và nhà biên kịch David Koepp. Nhà sản xuất Kathleen Kennedy là một trong những nhân vật hợp tác lâu dài nhất với vị đạo diễn. Ngoài ra, Spielberg cũng thể hiện sự kính trọng với các diễn viên của mình bằng cách tuyển họ nhiều lần: Harrison Ford, Mark Rylance, Richard Dreyfuss và Tom Hanks.

The Sugarland Express là bộ phim khởi động một loạt những dự án hợp tác sau này giữa Steven Spielberg và nhà soạn nhạc John Williams. Williams đã soạn nhạc cho gần như toàn bộ các tác phẩm của Spielberg, ngoại trừ năm bộ phim (gồm Twilight Zone: The Movie, Màu tím, Người đàm phán, Ready Player One: Đấu trường ảoCâu chuyện phía tây). Rốt cuộc, Williams đã mang về ba trong số năm giải Oscar trong sự nghiệp của mình nhờ sáng tác nhạc cho những bộ phim của Spielberg (Hàm cá mập, E.T. the Extra-Terrestrial cùng Bản danh sách của Schindler). Trong lúc thực hiện Bản danh sách của Schindler, vị đạo diễn đã tiếp cận Williams về công việc soạn nhạc. Sau khi nhìn thấy một bản cắt thô, chưa chỉnh sửa của tác phẩm, Williams đã rất ấn tượng và đáp rằng việc sáng tác sẽ rất khó khăn. Ông nói với Spielberg, "Có lẽ anh sẽ cần một nhà soạn nhạc giỏi hơn tôi để thực hiện bộ phim này." Spielberg trả lời, "Tôi biết chứ. Nhưng tất cả bọn họ đều đã xuống lỗ hết rồi!". Năm 2016, Spielberg trao tặng Giải Thành tựu Cuộc đời AFI lần thứ 44 cho Williams - lần đầu tiên giải thưởng này được trao cho một nhà soạn nhạc.

Chủ đề

Những bộ phim của Steven Spielberg thường đề cập đến một số chủ đề nhất định. Hầu hết chúng đều tập trung vào những con người bình thường tìm kiếm hoặc tiếp xúc với các sinh vật phi thường, hay có những trải nghiệm phi thường. Trong một cuộc phỏng vấn với Viện phim Mỹ vào tháng 8 năm 2000, nhà làm phim đã mô tả về mối quan tâm của ông đối với sự sống ngoài Trái Đất và cho biết nó đã ảnh hưởng đến một số tác phẩm của ông như thế nào. Spielberg nhận định rằng mình giống như một người ngoài hành tinh trong thời thơ ấu, và sự quan tâm của bố dành cho ông, một người hâm mộ khoa học viễn tưởng và luôn nghĩ rằng người ngoài hành tinh sẽ không đến Trái Đất để xâm lược, mà thay vào đó là sự tò mò và chia sẻ tri ​​thức.

Một đề tài có tác động mạnh mẽ đến Spielberg là những cảm xúc diệu kỳ và niềm tin như một đứa trẻ, rằng "Lương năng của con người sẽ chiếm ưu thế", được chứng thực bằng các tác phẩm như Close Encounters of the Third Kind, E.T. Sinh vật ngoài hành tinh, Hook, A.I. Artificial IntelligenceChuyện chưa kể ở xứ sở khổng lồ. Theo Warren Buckland, những chủ đề này được miêu tả thông qua việc sử dụng các cảnh quay camera có độ phân giải khác nhau, đã trở thành một trong những thương hiệu của Spielberg. Ngoài những bộ phim tập trung vào trẻ em (ET. Sinh vật ngoài hành tinh, Đế chế mặt trời, Công viên kỷ Jura, v.v.), thì chúng cũng xuất hiện trong Munich, Giải cứu binh nhì Ryan, The Terminal, Minority Report, và Amistad. Mỗi tác phẩm của nhà làm phim đều có những cảnh quay khuếch đại thị giác, và cảnh biển nước trong Hàm cá mập được thu hình từ góc nhìn thấp của một người nào đó đang bơi. Một đề tài hướng đến trẻ em khác trong các bộ phim của Spielberg là việc mất đi sự hồn nhiên và sắp đến độ tuổi trưởng thành. Trong Đế chế mặt trời, Jim, một cậu bé người Anh hư hỏng do được nuông chiều, đã mất đi sự hồn nhiên của mình sau khi trải qua Thế chiến II ở Trung Quốc. Tương tự, trong Hãy bắt tôi nếu có thể, Frank ngây thơ và dại dột tin rằng anh có thể giành lại được gia đình của mình bằng cách tích lũy đủ tiền để hỗ trợ họ.

Chủ đề dai dẳng nhất trong suốt các tác phẩm của vị đạo diễn là sự căng thẳng trong mối quan hệ giữa bố mẹ và con cái. Bố mẹ (thường là người bố) là những người nghiện rượu chè, luôn vắng mặt hoặc không hay biết gì. Peter Banning trong Hook là một người bố bất đắc dĩ, nhưng xuyên suốt bộ phim đã lấy lại được sự tôn trọng từ con cái mình. Sự vắng mặt của bố Elliott trong E.T là ví dụ nổi tiếng nhất của chủ đề này. Trong Indiana Jones và Cuộc thập tự chinh cuối cùng, phim tiết lộ rằng Indy luôn có mối quan hệ rất căng thẳng với bố mình, một giáo sư văn học thời trung cổ, vì ông ta luôn quan tâm đến việc nghiên cứu, đặc biệt là về Chén Thánh, hơn là con trai mình, mặc dù bố anh dường như không nhận ra hoặc hiểu được tác động tiêu cực của những điều đó (ông ta thậm chí còn tin rằng ông là một người cha tốt vì đã dạy cho con trai mình biết cách "tự lập", điều mà Indy không nhận ra). Ngay cả Oskar Schindler trong Bản danh sách của Schindler cũng không muốn có con. Trong Màu tím, nhân vật chính Celie thậm chí còn bị người cha làm tình nhiều lần. Munich miêu tả Avner là một người đàn ông xa cách vợ và đứa con gái mới sinh. Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp ngoại lệ; như Brody trong Hàm cá mập là một người đàn ông tận tụy của gia đình, trong khi John Anderton trong Minority Report là một người cha đau khổ vì sự mất tích của con trai mình. Chủ đề này được cho là khía cạnh tự truyện nhất trong các bộ phim của Spielberg, vì việc ly hôn của cha mẹ đã tác động đến ông. Hơn nữa, với chủ đề này, các nhân vật chính trong các tác phẩm của ông thường xuất thân từ những gia đình không được nguyên vẹn, bao gồm cả E.T. Người ngoài hành tinh (mẹ của nhân vật chính Elliot đã ly hôn) và Hãy bắt tôi nếu có thể (bố và mẹ của Frank Abagnale đã chia tay sớm).

Hầu hết các bộ phim của ông nói chung là lạc quan về bản chất. Mặc dù một số nhà phê bình cáo buộc các phim của ông hơi tình cảm quá mức, nhưng Spielberg cảm thấy nó vẫn ổn miễn là mọi người không nhận ra. Ông vẫn là một nhà làm phim được đánh giá cao cũng như được xem là một trong những đạo diễn có ảnh hưởng nhất mọi thời đại.

Đời tư

Spielberg gặp Amy Irving lần đầu vào năm 1976, theo gợi ý của đạo diễn Brian De Palma khi biết ông đang tìm một nữ diễn viên để đóng trong Kiểu tiếp xúc thứ 3. Sau khi gặp cô ấy, Spielberg nói với đồng sản xuất Julia Phillips, "Tối qua, tôi đã gặp một cô gái có trái tim thực sự tan vỡ".

Spielberg sau đó đã có quan hệ tình cảm với nữ diễn viên Kate Capshaw, người mà ông gặp trong buổi thử vai của bộ phim Indiana Jones và Ngôi đền tàn khốc. Hai người kết hôn vào ngày 12 tháng 10 năm 1991. Capshaw sau đó đã cải đạo sang Do Thái giáo. Spielberg nói rằng ông đã tìm lại "vinh dự được làm người Do Thái" khi họ kết hôn. Ông cũng cho biết, "Kate theo đạo Tin lành và cô ấy khăng khăng đòi chuyển sang đạo Do Thái. Cô ấy đã dành một năm để nghiên cứu, thực hiện "mikveh". Cô ấy đã chọn thực hiện một cuộc cải đạo hoàn toàn trước khi chúng tôi kết hôn vào năm 1991, và cô ấy lấy tôi ngay sau khi trở thành người Do Thái. Tôi nghĩ rằng, hơn bất cứ điều gì khác, nó đã đưa tôi trở lại đạo Do Thái." Họ sống trong bốn ngôi nhà khác nhau ở Pacific Palisades, California; Nông trại Quelle, Georgica Pond ở East Hampton, New York; Thành phố New York và Naples, Florida.

Hiện Steven Spielberg đã có bảy người con, bao gồm: Jessica Capshaw (sinh ngày 9 tháng 8 năm 1976) - con gái của Kate Capshaw và Robert Capshaw. Max Samuel Spielberg (sinh ngày 13 tháng 6 năm 1985) - con trai của Spielberg và nữ diễn viên Amy Irving. Theo Spielberg (sinh ngày 21 tháng 8 năm 1988) - con trai, được Capshaw nhận nuôi trước khi kết hôn với Spielberg. Sasha Rebecca Spielberg (sinh ngày 14 tháng 5 năm 1990, Los Angeles) Sawyer Avery Spielberg (sinh ngày 10 tháng 3 năm 1992, Los Angeles) Mikaela George (sinh ngày 28 tháng 2 năm 1996) - được nhận nuôi bởi Kate Capshaw. *Destry Allyn Spielberg (sinh ngày 1 tháng 12 năm 1996(

Tài sản

Theo Tạp chí Forbes, tài sản của Spielberg nằm ở mức 3,7 tỷ USD. Vào năm 2009, trường Đại học Boston đã trao tặng ông bằng Tiến sĩ danh dự.

Theo danh sách những người có ảnh hưởng nhất năm 2014 của Forbes, Spielberg được đánh giá là người nổi tiếng có ảnh hưởng nhất ở Mỹ. Bản danh sách này được thực hiện bởi E-Poll Market Research ghi nhận 6.600 người thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau "được xem là có ảnh hưởng đến công chúng, đồng nghiệp của họ hoặc cả hai." Spielberg có điểm số 47, nghĩa là 47% người Mỹ tin rằng đạo diễn này có ảnh hưởng.

Chính trị

Spielberg thường hỗ trợ các ứng cử viên của Đảng Dân chủ Hoa Kỳ. Ông đã quyên góp hơn 800.000 USD cho đảng Dân chủ và những người ứng cử. Nhà là phim từng là bạn thân của cựu Tổng thống Bill Clinton và cùng ông ấy tham gia lễ kỷ niệm Thiên niên kỷ của Hoa Kỳ. Spielberg đã chỉ đạo một bộ phim dài 18 phút có tựa đề The American Journey, với phần nhạc nền được thực hiện bởi John Williams. Phim được chiếu tại Gala Thiên niên kỷ của Mỹ vào ngày 31 tháng 12 năm 1999, tại National Mall, hồ phản chiếu thuộc Nhà tưởng niệm Lincoln ở Washington, D.C.

thumb|right|Bộ trưởng Quốc phòng [[William S. Cohen hộ tống Spielberg vào Lầu năm góc với tư cách người đứng đầu quân đội.]]

Spielberg từ bỏ tư cách là thành viên ban cố vấn quốc gia của Hội Nam Hướng đạo Mỹ vào năm 2001 vì ông không tán thành lập trường chống đồng tính luyến ái của tổ chức. Năm 2007, Liên đoàn Ả Rập đã bỏ phiếu tẩy chay các bộ phim của Spielberg sau khi đạo diễn quyên góp 1 triệu USD cho các hoạt động cứu trợ ở Israel trong Chiến tranh Liban 2006. Vào ngày 20 tháng 2 năm 2007, Spielberg, Jeffrey Katzenberg và David Geffen đã mời đảng Dân chủ đến gây quỹ cho Barack Obama. Vào tháng 2 năm 2008, Spielberg đã rút khỏi vai trò cố vấn cho Thế vận hội Mùa hè 2008 để đáp lại sự bất lực của chính phủ Trung Quốc đối với Chiến tranh Darfur. Spielberg tuyên bố rằng "Tôi thấy rằng lương tâm của mình sẽ không cho phép tôi tiếp tục công việc như bình thường." Ông cũng nói rằng "Chính phủ Sudan chịu trách nhiệm cho những tội ác này, nhưng cộng đồng quốc tế, đặc biệt là Trung Quốc, cần phải có trách nhiệm nhiều hơn nữa.". Ủy ban Olympic Quốc tế tôn trọng quyết định của Spielberg, nhưng chủ tịch Ủy ban Jacques Rogge thừa nhận trong một cuộc phỏng vấn rằng "[Spielberg] chắc chắn sẽ mang lại nhiều điều sáng tạo cho Lễ khai mạc.". Tuyên bố của Spielberg đã nhận sự chỉ trích từ các quan chức Trung Quốc và truyền thông nhà nước gọi lời chỉ trích của ông là "không công bằng". Vào tháng 9 năm 2008, Spielberg và vợ đã đề nghị hỗ trợ cho hôn nhân đồng giới bằng cách quyên góp 100.000 USD cho quỹ chiến dịch "No on Proposition 8", tương đương với số tiền mà Brad Pitt quyên góp cho cùng chiến dịch vào một tuần trước.

Năm 2018, đạo diễn và Kate Capshaw đã quyên góp 500.000 USD cho cuộc biểu tình của sinh viên March for Our Lives để ủng hộ việc kiểm soát súng đạn ở Hoa Kỳ.

Sở thích

Là một nhà sưu tập kỷ vật điện ảnh, Spielberg đã mua một tấm ván trượt làm bằng gỗ balsa từ bộ phim Công dân Kane (1941) vào năm 1982. Ông đã đặt mua bản sao kịch bản bộ phim phát trên radio The War of the Worlds (1938) của Orson Welles vào năm 1994. Ngoài ra, vị đạo diễn cũng mua lại những tượng vàng Oscar đang được bán đấu giá trên thị trường và tặng lại cho Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh, nhằm ngăn chặn việc mua bán chúng trái phép. Những bức tượng mà ông đã mua bao gồm giải Oscar mà Bette Davi nhận được cho vai diễn trong Dangerous (1935) và Jezebel (1938), và giải Oscar của Clark Gable trong It Happened One Night (1934).

Spielberg là một nhà sưu tập những tác phẩm của họa sĩ minh họa người Mỹ Norman Rockwell. Một bộ sưu tập gồm 57 bức tranh và bản vẽ của Rockwell thuộc sở hữu của Spielberg và đạo diễn George Lucas đã được trưng bày tại Viện bảo tàng Nghệ thuật Hoa Kỳ Smithsonian vào ngày 2 tháng 7 năm 2010 - 2 tháng 1 năm 2011, trong một cuộc triển lãm có tên Telling Stories.

Ngoài ra, đạo diễn cũng là một người say mê phim ảnh và khi không làm phim, ông sẽ xem nhiều bộ phim vào cuối tuần. Ông ấy xem hầu hết các tác phẩm bom tấn mùa hè ở rạp và hầu hết đều yêu thích chúng.

Kể từ khi chơi Pong trong lúc quay Hàm cá mập vào năm 1974, Spielberg đã là một game thủ cuồng nhiệt. Ông đã chơi nhiều trò chơi phiêu lưu của LucasArt, bao gồm những phiên bản đầu tiên của Monkey Island. Ông đã sắm cho mình hệ máy Wii, PlayStation 3, PSP và Xbox 360 và thường hay chơi những tựa game bắn súng góc nhìn thứ nhất, như sê-ri Medal of HonorCall of Duty 4: Modern Warfare. Nhà làm phim cũng chỉ trích việc sử dụng những đoạn cắt cảnh trong các trò chơi, đã gọi chúng là sự xúc phạm và cảm thấy việc đưa cốt truyện vào trò chơi một cách tự nhiên là một thách thức đối với những nhà phát triển trò chơi trong tương lai.

Bị theo dõi

Năm 2001, Steven Spielberg bị theo dõi bởi nhà lý luận âm mưu và cựu nhân viên xã hội Diana Napolis. Cô cáo buộc ông, cùng với nữ diễn viên Jennifer Love Hewitt, đã cài đặt một thiết bị kiểm soát tâm trí trong não cô, và là một phần của giáo phái satan. Napolis đã từng phải vào bệnh viện tâm thần trước khi bị cáo buộc theo dõi và được toà tuyên án treo với điều kiện cô không được liên lạc với Spielberg hoặc Hewitt.

Jonathan Norman đã bị bắt sau hai lần cố gắng đột nhập vào khu dân cư Pacific Palisades vào tháng 6 và tháng 7 năm 1997. Hắn ta đã bị giam 25 năm tại nhà tù California. Spielberg nói với tòa án: "Nếu Jonathan Norman thực sự đối mặt với tôi, tôi tin rằng tôi sẽ bị hãm hiếp hoặc sát hại."

Công việc sản xuất phim

nhỏ|Steven Spielberg vào năm 1999 Kể từ giữa những năm 1980, Steven Spielberg đã trở thành một nhà sản xuất phim "chính hiệu". Ông đã sản xuất một số phim hoạt hình, bao gồm cả những sê-ri nổi tiếng của Warner Bros. như Tiny Toon Adventures, Animaniacs, Pinky and the Brain, Toonsylvania, và Freakazoid!, trong đó ông hợp tác với Jean MacCurdy và Tom Ruegger. Do vai trò của vị đạo diễn đối với những loạt phim này, nên hầu hết phần giới thiệu trong số chúng đều có dòng chữ "Steven Spielberg xin giới thiệu", ngoài ra Spielberg cũng trở thành khách mời cho nhiều chương trình. Sau đó, Spielberg sản xuất Don Bluth, An American TailThe Land Before Time, được phát h

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Steven Allan Spielberg** (; sinh ngày 18 tháng 12 năm 1946) là một nam nhà làm phim người Mỹ gốc Do Thái. Ông bắt đầu sự nghiệp của mình trong kỷ nguyên New Hollywood và
thumb|right|Spielberg trong buổi ra mắt _[[Ready Player One: Đấu trường ảo_ năm 2018 tại Nhật Bản]] **Steven Spielberg** là một nam đạo diễn, nhà sản xuất điện ảnh kiêm nhà biên kịch người Mỹ gốc
Đây là danh sách những giải thưởng và đề cử của đạo diễn, nhà sản xuất và nhà biên kịch phim người Mỹ **Steven Spielberg**. ## Những giải thưởng lớn ### Giải thưởng Viện Hàn
**_Bản danh sách của Schindler_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Schindler's List_**) là một bộ phim điện ảnh chính kịch cổ trang sử thi của Hoa Kỳ sản xuất và phát hành năm 1993 do Steven
**_Ready Player One: Đấu trường ảo_** (tiếng Anh: **_Ready Player One_**) là một bộ phim điện ảnh Mỹ thuộc thể loại hành động – phiêu lưu – khoa học viễn tưởng – chính kịch ra
**_Câu chuyện phía Tây_** (tiếng Anh: **_West Side Story_**) là một bộ phim điện ảnh Mỹ thuộc thể loại nhạc kịchtình cảmchính kịch của công chiếu vào năm 2021 do Steven Spielberg làm đạo diễn
**_Indiana Jones và chiếc rương thánh tích_**, rút gọn thành **_Chiếc rương thánh tích_** (tiếng Anh: **_Raiders of the Lost Ark_** hoặc **_Indiana Jones and the Raiders of the Lost Ark_**) là một bộ phim
**_Giải cứu binh nhì Ryan_** (tựa tiếng Anh: **_Saving Private Ryan_**) là một bộ phim chiến tranh sử thi của Mỹ năm 1998 do Steven Spielberg đạo diễn và được biên kịch bởi Robert Rodat.
**_Công viên kỷ Jura_** (tên gốc tiếng Anh: **_Jurassic Park_**) là phim điện ảnh phiêu lưu khoa học viễn tưởng của Mỹ năm 1993 do Steven Spielberg đạo diễn và Kathleen Kennedy cùng Gerald R.
**_Người đàm phán_** (tựa tiếng Anh: **_Bridge of Spies_**) là một bộ phim lịch sử năm 2015 do Steven Spielberg đạo diễn và đồng sản xuất, Matt Charman và anh em nhà Coen viết kịch
**_The Fabelmans: Tuổi trẻ huy hoàng_** (tựa gốc tiếng Anh: _The Fabelmans_) là một bộ phim điện ảnh Mỹ thuộc thể loại tuổi mới lớn – chính kịch ra mắt vào năm 2022 do Steven
**_The Color Purple_** (tạm dịch: _Màu Tím_) là bộ phim bi kịch phản ánh thời đại của Mỹ năm 1985, đạo diễn bởi Steven Spielberg. Đây là phim thứ 8 ông đạo diễn, được dựa
**Hàm cá mập** (tựa tiếng Anh: **Jaws**) là một bộ phim kinh dị Mỹ của đạo diễn lừng danh Steven Spielberg sản xuất vào năm 1975, khi ông 29 tuổi; đây cũng là bộ phim
**DreamWorks Pictures**, hay **DreamWorks SKG** là một hãng phim Hoa Kỳ chuyên sản xuất và phân phối phim điện ảnh, trò chơi điện tử và chương trình truyền hình. DreamWorks bắt đầu hoạt động từ
**_Mặt trận Thái Bình Dương_** (tiếng Anh: **_The Pacific_**) là một bộ phim truyền hình ngắn tập về đề tài chiến tranh của Mỹ năm 2010 do HBO, Playtone và DreamWorks sản xuất, và được
:''Xin đọc về các nghĩa khác tại Terminal (định hướng). **_The Terminal_** là phim sản xuất năm 2004 thuộc thể loại phim hài dựa theo truyện của Andrew Niccol và Sacha Gervasi. Bộ phim do
**Những cuộc phiêu lưu của Tintin**, hay còn biết với tựa đề **Những cuộc phiêu lưu của Tintin: Bí mật tàu Kỳ Lân** (tựa tiếng Anh: **The Adventures of Tintin** hay là **The Adventures of
**_Masters of the Air_** là một bộ phim truyền hình ngắn tập về đề tài chiến tranh của Mỹ năm 2024, được biên kịch bởi John Shiban và John Orloff, và do Apple Studios, Playtone
**_A.I. Artificial Intelligence_** (viết tắt là **_A.I._**) là một phim điện ảnh chính kịch khoa học viễn tưởng của Mỹ năm 2001 do Steven Spielberg đạo diễn. Kịch bản phim do Spielberg và Ian Watson
**_Munich_** là một bộ phim điện ảnh giật gân chính kịch lịch sử do Steven Spielberg đạo diễn kiêm sản xuất, với phần kịch bản được chắp bút bởi Tony Kushner và Eric Roth. Bộ
**_Thế giới đại chiến_** (tên gốc tiếng Anh: **_War of the Worlds_**) là một bộ phim điện ảnh hành động khoa học viễn tưởng năm 2005 của Mỹ, do Steven Spielberg đạo diễn và Josh
The BFG Now a major motion picture directed by Steven Spielberg Starring Mark Rylance, Ruby Barnhill, Penelope Wilton, Jemaine Clement, Bill Hader, and Adam Godley. The BFG is no ordinary bone-crunching giant. He is far
Lối đi của những người thành công nhờ tư duy phá cách và sự tinh quái Cuộc hành trình ấn tượng của một cậu sinh viên năm nhất 18 tuổi, người can đảm bước ra
Kẻ Khôn Đi Lối Khác Lối đi của những người thành côngnhờ tư duy phá cách và sự tinh quái 1 INTERNATIONAL BESTSELLER FORBES 1 CAREER BOOK TO READ IN 2018 Cuộc hành trình ấn
Cuốn sách được công ty Amblin Partners của Steven Spielberg mua bản quyền chuyển thể thành phim vào năm 2017. Phải đến giữa sách, câu chuyện mới bắt đầu hé lộ bí mật đầu tiên,
Vợ Mới Của Chồng Tôi Free book care và kèm sổ tay xương rồng Sổ tay ngẫu nhiên 1 trong 4 hình Cuốn sách được công ty Amblin Partners của Steven Spielberg mua bản quyền
Kẻ Khôn Đi Lối Khác Lối đi của những người thành côngnhờ tư duy phá cách và sự tinh quái 1 INTERNATIONAL BESTSELLER FORBES 1 CAREER BOOK TO READ IN 2018 Cuộc hành trình ấn
Kẻ Khôn Đi Lối Khác - The Third Door Lối đi của những người thành công nhờ tư duy phá cách và sự tinh quái 1 INTERNATIONAL BESTSELLER FORBES FORBES 1 CAREER BOOK TO READ
The BFG NOW A MAJOR MOTION PICTURE BY STEVEN SPIELBERG, starring Oscar-winning actor Mark Rylance as THE BFG On a dark, silvery moonlit night, Sophie is snatched from her bed by a giant. Luckily it
**_Lincoln_** là một phim điện ảnh chính kịch lịch sử của Mỹ năm 2012 do Steven Spielberg đạo diễn kiêm sản xuất, với sự tham gia diễn xuất của nam diễn viên Daniel Day-Lewis trong
**_Catch Me If You Can_** là một bộ phim theo thể loại hình sự phá án, có mang tính chất hài hước (crime comedy-drama) dựa theo câu chuyện có thật về tiểu sử của Frank
**_Thế giới bị mất: Công viên kỷ Jura_** hoặc là **_Công viên khủng long 2_** (tựa tiếng Anh: **_The Lost World: Jurassic Park_**) là một bộ phim kinh dị, viễn tưởng và phiêu lưu năm
**_Chiến mã_** (tiếng Anh: **_War Horse_**) là một bộ phim chiến tranh năm 2011 do đạo diễn lừng danh Steven Spielberg làm đạo diễn. Bộ phim này đã được đề cử vào giải Emmy và
**_Minority Report_** là một bộ phim cyberpunk hành động mang yếu tố bí ẩn - rùng rợn do Steven Spielberg đạo diễn và ít dựa trên cuốn truyện ngắn cùng tên của Philip K. Dick.
**_Chuyện chưa kể ở xứ sở khổng lồ_** (tựa gốc: **_The BFG_** hay **_Roald Dahl's The BFG_**, viết tắt của từ _Big Friendly Giant_) là một phim điện ảnh phiêu lưu kỳ ảo của Mỹ
**_E.T. the Extra-Terrestrial_** là một phim điện ảnh khoa học viễn tưởng của Mỹ năm 1982 do Steven Spielberg đồng sản xuất và đạo diễn, với kịch bản viết bởi Melissa Mathison. Phim có những
**_Close Encounters of the Third Kind_** (tạm dịch: _Sự tiếp xúc của thế giới thứ ba_) là một phim điện ảnh khoa học viễn tưởng của Mỹ năm 1977 do Steven Spielberg đạo diễn kiêm
**_Indiana Jones và vương quốc sọ người_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Indiana Jones and the Kingdom of the Crystal Skull_**) là một phim điện ảnh hành động-phiêu lưu của Mỹ năm 2008 do Steven Spielberg
**Giải César cho phim nước ngoài hay nhất** là một giải César dành cho các phim không phải của Pháp được bầu chọn là hay nhất. ## Các phim đoạt giải và các phim được
**_Chiến tranh giữa các vì sao: Tập 4 – Niềm hi vọng mới_** (tựa gốc tiếng Anh ban đầu: **_Star Wars_**, sau này được đổi tựa đề là **_Star Wars: Episode IV – A New
**Liên hoan phim quốc tế Berlin thường niên lần thứ 73** (thường được gọi là **Berlinale**; ) diễn ra từ ngày 16 đến ngày 26 tháng 2 năm 2023. Đây là liên hoan phim Berlin
**Harrison Ford** (sinh ngày 13 tháng 7 năm 1942) là một diễn viên, phi công và nhà hoạt động môi trường người Mỹ. Tính đến năm 2020, tổng doanh thu phòng vé nội địa Hoa
**_Indiana Jones và vòng quay định mệnh_** (tên tiếng Anh: **_Indiana Jones and the Dial of Destiny_**) là bộ phim phiêu lưu-hành động của Mỹ ra mắt năm 2023 được đạo diễn bởi James Mangold
**Thế giới khủng long: Vương quốc sụp đổ** (tên gốc tiếng Anh: **_Jurassic World: Fallen Kingdom_**) là một bộ phim phiêu lưu khoa học viễn tưởng Mỹ năm 2018 và là phần tiếp nối của
**_Robot đại chiến_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Transformers_**) là một phim hành động khoa học viễn tưởng của Mỹ năm 2007 dựa trên dòng đồ chơi cùng tên của Hasbro. Đây là phần đầu tiên
**_Harry Potter và Hòn đá Phù thủy_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Harry Potter and the Philosopher's Stone_**, phát hành ở Hoa Kỳ, Ấn Độ và Philippines với tên gọi **_Harry Potter and the Sorcerer's Stone_**)
**_Ngài_** **Christopher Edward Nolan** (; sinh ngày 30 tháng 7 năm 1970) là một nam nhà làm phim kiêm doanh nhân người Mỹ gốc Anh. Được đánh giá là nhà làm phim tiên phong trong
thumb|upright=1|right|_[[Cuốn theo chiều gió (phim)|Cuốn theo chiều gió_ giữ danh hiệu bộ phim có doanh thu cao nhất trong 25 năm và, khi tính đến lạm phát, đã thu về nhiều hơn bất kỳ bộ
**_American Sniper_** (tựa tiếng Việt: **_Lính bắn tỉa Mỹ_**) là một bộ phim điện ảnh chính kịch tiểu sử đề tài chiến tranh năm 2014 của Mỹ, do Clint Eastwood làm đạo diễn và Jason
**_Thế giới khủng long: Lãnh địa_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Jurassic World Dominion_**) là một bộ phim hành động khoa học viễn tưởng năm 2022 của Mỹ do Colin Trevorrow đạo diễn, người đã viết