✨Chủ nghĩa Tam Dân

Chủ nghĩa Tam Dân

Chủ nghĩa Tam Dân hay Học thuyết Tam Dân (phồn thể: 三民主義, giản thể: 三民主义) là một cương lĩnh chính trị do Tôn Dật Tiên đề xuất, với tinh thần biến đất nước Trung Hoa (khi đó đang trong triều đại nhà Thanh của người Mãn Châu) thành một quốc gia tự do, phồn vinh và hùng mạnh. Việc kế thừa và hiện thực ngày nay thể hiện rõ nhất trong tổ chức chính quyền của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Triết lý này cũng xuất hiện trong dòng đầu tiên của Quốc ca Trung Hoa Dân Quốc. Cương lĩnh (hay học thuyết) chính trị này bao gồm: Dân tộc độc lập (民族獨立), Dân quyền tự do (民權自由), Dân sinh hạnh phúc (民生幸福). Chủ nghĩa Tam dân có ảnh hưởng đến cả Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch, cả hai đều mến mộ Tôn Trung Sơn, cho dù là đối thủ của nhau và đều hay được xem là những nhà cai trị độc đoán. Chủ nghĩa Tam Dân cũng được ghi nhận là có ảnh hưởng lớn trong lịch sử chính trị Việt Nam hiện đại và là nguồn gốc của Tiêu ngữ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc của Nhà nước Việt Nam.

Nguồn gốc

thumb|left|Khái niệm đầu tiên xuất hiện trên tờ Dân Báo năm 1905 là "Tam đại chủ nghĩa" (三大 主義, Ba nguyên tắc lớn) thay vì "Tam dân chủ nghĩa" (三民主義) như ngày nay. Năm 1894, khi tổ chức Hưng Trung Hội được thành lập, Tôn Dật Tiên mới chỉ hình thành hai nguyên tắc đại cương: dân tộc và dân quyền. Ông đã chọn ý tưởng thứ ba - dân sinh, trong chuyến đi ba năm đến châu Âu từ năm 1896 đến năm 1898. Ông đã công bố tất cả ba ý tưởng vào mùa xuân năm 1905, trong một chuyến đi khác đến châu Âu. Ông đã trình bày bài phát biểu đầu tiên của "Chủ nghĩa Tam Dân" ở Brussels (Bỉ). Ông tổ chức Hưng Trung Hội ở nhiều thành phố châu Âu. Có khoảng 30 thành viên trong chi nhánh Brussels vào thời điểm đó, còn có 20 thành viên ở Berlin và 10 thành viên ở Paris.

Các nguyên tắc của Chủ nghĩa Tam Dân

Dân tộc độc lập

"Chủ nghĩa dân tộc" (民族主義, Mínzú Zhǔyì), nghĩa đen là "Chủ nghĩa dân túy" hoặc "sự cai trị/chính phủ của Nhân dân" hay "Dân tộc", mô tả rõ ràng một quốc gia hơn là một nhóm người được thống nhất bởi một mục đích, do đó cách dịch thường được sử dụng và khá chính xác là "chủ nghĩa dân tộc". Bằng cách này, theo Tôn Trung Sơn có nghĩa là độc lập khỏi sự thống trị hoặc áp bức của đế quốc. Để đạt được điều này, ông tin rằng Trung Quốc phải phát triển một "Chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc"," Dân tộc Trung Hoa, trái ngược với một "chủ nghĩa dân tộc-sắc tộc," để đoàn kết tất cả các sắc tộc khác nhau của Trung Quốc. Những người này chủ yếu bao gồm năm nhóm chính, người Hán, người Mông Cổ, người Tây Tạng, người Mãn Châu và người Hồi giáo (chẳng hạn như người Duy Ngô Nhĩ), cùng được biểu tượng bằng Lá cờ Năm màu của nền Cộng hòa thứ nhất (1911–1928). Ý thức về chủ nghĩa dân tộc này khác với ý tưởng về "chủ nghĩa sắc tộc,"tương tự như ý nghĩa của chủ nghĩa dân tộc trong ngôn ngữ Trung Quốc. Để đạt được điều này, ông tin rằng Trung Quốc phải phát triển một "ý thức dân tộc" để đoàn kết các dân tộc ở Trung Quốc mà tiêu biểu là người Hán trước sự áp bức của người Mãn Châu và sự xâm lược của các đế quốc bên ngoài. Ông cho rằng "minzu", có thể được dịch là "con người", "quốc tịch" hoặc "chủng tộc", được định nghĩa bằng cách chia sẻ chung huyết thống, sinh kế, tôn giáo, ngôn ngữ và phong tục.

Dân quyền tự do

"Chủ nghĩa dân quyền" (民權主義, Mínquán Zhǔyì), nghĩa đen là "quyền lực của Nhân dân" hoặc "chính phủ do Nhân dân." Đối với Tôn Trung Sơn, nó đại diện cho một chính phủ hợp hiến của phương Tây. Ông chia đời sống chính trị theo lý tưởng của mình đối với Trung Quốc thành hai tập hợp "quyền lực": quyền lực chính trị và quyền lực quản trị

Quyền lực chính trị (政權, zhèngquán) là quyền của người dân để bày tỏ mong muốn chính trị của họ, tương tự như quyền của công dân hoặc nghị viện ở các quốc gia khác và được đại diện bởi Quốc hội. Có bốn quyền sau: bầu cử (選舉), bãi miễn (罷免), Sáng kiến (創制), và trưng cầu dân ý (複決). Những điều này có thể được coi là "quyền dân sự".

Quyền lực quản trị (治權, zhìquán) là quyền lực của quản lý. Tại đây, ông đã mở rộng lý thuyết hiến pháp Âu-Mỹ về một chính phủ ba nhánh và một hệ thống kiểm tra và cân bằng bằng cách kết hợp các hệ thống hành chính truyền thống của Trung Quốc để tạo ra một chính phủ gồm năm nhánh (mỗi nhánh được gọi là Yuan (院, yuàn, nghĩa là "Viện"). Lập pháp Viện, Hành chính Viện, và Tư pháp Viện xuất phát từ tư tưởng của Montesquieuan; Giám sát viện và Khảo thí Viện xuất phát từ truyền thống Trung Quốc. (Lưu ý rằng Lập pháp Viện trước tiên được dùng như một nhánh quản trị tương đương với Quốc hội.)

Dân sinh hạnh phúc

"Chủ nghĩa dân sinh" (民生主義, Mínshēng Zhǔyì), đôi khi được dịch là "phúc lợi/sinh kế của Nhân dân", "Chính phủ vì Nhân dân". Khái niệm này có thể được hiểu là phúc lợi xã hội và là sự chỉ trích trực tiếp những bất cập của chủ nghĩa tư bản. Ông chịu ảnh hưởng của nhà tư tưởng người Mỹ Henry George. Tôn Trung Sơn dự định đưa ra một cuộc cải cách thuế theo chủ nghĩa Georgist. Thuế giá trị đất ở Đài Loan là một di sản của nó. Tôn Trung Sơn nói rằng thuế giá trị đất đai là "phương tiện duy nhất để hỗ trợ chính phủ là một loại thuế vô hạn công bằng, hợp lý và được phân phối công bằng, và trên đó chúng tôi sẽ tìm ra hệ thống mới của mình."

Ông chia sinh kế thành bốn lĩnh vực: quần áo, thực phẩm, nhà ở và di chuyển; và hoạch định cách một chính phủ lý tưởng (Trung Quốc) có thể chăm sóc những điều này cho người dân của mình. Tôn Trung Sơn chết trước khi ông có thể giải thích đầy đủ tầm nhìn của mình về Nguyên tắc này và nó đã là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận trong cả Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc, sau đó cho rằng Tôn ủng hộ chủ nghĩa xã hội. Tưởng Giới Thạch nêu rõ thêm nguyên tắc Dân sinh về tầm quan trọng của phúc lợi xã hội và các hoạt động giải trí đối với một Trung Quốc hiện đại hóa vào năm 1953 tại Đài Loan.

Kinh viện

Di sản

Chủ nghĩa Tam Dân được tuyên bố là cơ sở cho các hệ tư tưởng của Quốc dân đảng dưới thời Tưởng Giới Thạch, của Đảng Cộng sản Trung Quốc dưới thời Mao Trạch Đông, và của Chính phủ Quốc gia được tổ chức lại của Trung Quốc dưới thời Uông Tinh Vệ. Quốc Dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc phần lớn đồng ý về ý nghĩa của Dân tộc, nhưng khác biệt rõ rệt về ý nghĩa của "Dân quyền" và "Dân sinh" vốn được Quốc Dân Đảng hiểu theo thuật ngữ dân chủ xã hội phương Tây và đảng Cộng sản giải thích theo thuật ngữ Mác xít và cộng sản.Chính phủ cộng tác Nhật Bản giải thích chủ nghĩa dân tộc ít hơn về chủ nghĩa chống đế quốc và nhiều hơn về hợp tác với Nhật Bản để tiến tới Đại châu Á về mặt lý thuyết, nhưng trên thực tế, điển hình là lợi ích của Nhật Bản.

Đài Loan

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Three_Principles_of_the_People_Unites_China.jpg|trái|nhỏ|250x250px|Một bảng hiệu trên [[đảo Đại Đảm gần Kim Môn đối diện với Trung Quốc Đại lục tuyên bố "Tam Dân chủ nghĩa thống nhất Trung Quốc" ]] Có một số viện giáo dục đại học (các phòng/khoa đại học và viện sau đại học) ở Đài Loan đã từng cống hiến hết mình cho việc 'nghiên cứu và phát triển' Tam dân về khía cạnh này. Kể từ cuối những năm 1990, các viện này đã tự định hướng lại để các học thuyết chính trị khác cũng được thừa nhận là đáng được xem xét, và đã đổi tên thành trung lập hơn về mặt tư tưởng (chẳng hạn như Democratic Studies Institute).

Ngoài hiện tượng thể chế này, nhiều đường phố và doanh nghiệp ở Đài Loan được đặt tên là "Sān-mín" hoặc cho một trong ba nguyên tắc. Trái ngược với những tên đường phố có nguồn gốc chính trị khác, không có sự đổi tên lớn nào cho những đường phố hoặc tổ chức này trong những năm 1990.

Mặc dù thuật ngữ "Tam dân chủ nghĩa" (三民主義) đã ít được gọi một cách rõ ràng hơn kể từ giữa những năm 1980, không có đảng chính trị nào công kích các nguyên tắc của nó một cách rõ ràng bằng các hoạt động dưới thời thiết quân luật ngoại trừ các nhóm phong trào Tangwai như Đảng Dân Tiến. Tam dân rõ ràng vẫn là một phần trong cương lĩnh của Quốc dân đảng và trong Hiến pháp của Trung Hoa Dân Quốc.

Đối với những người ủng hộ Đài Loan độc lập, một số phản đối liên quan đến cam kết hiến pháp chính thức đối với một loạt các nguyên tắc chính trị cụ thể. Ngoài ra, họ đã chống lại việc giảng dạy bắt buộc trong các trường học và đại học, hiện đã bị bãi bỏ theo kiểu chắp vá bắt đầu từ cuối những năm 1990. Tuy nhiên, có rất ít sự thù địch cơ bản đối với bản thân nội dung các nguyên tắc. Trong những vòng kết nối này, thái độ đối với Tam Dân trải rộng từ sự thờ ơ đến việc diễn giải lại Tam Dân trong bối cảnh địa phương của Đài Loan hơn là trong bối cảnh Trung Quốc.

Việt Nam

Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội là một liên hiệp các nhóm Việt Nam dân tộc chủ nghĩa, do Việt Nam Quốc dân Đảng thân Trung Quốc điều hành. Việt Nam Quốc Dân Đảng dịch trực tiếp thành Vietnamese Kuomintang, và nó dựa trên đảng Quốc Dân Đảng của Trung Quốc. Mục tiêu đã nêu của nó là để thống nhất với Trung Quốc theo Tam Dân, và chống lại Đế quốc Nhật Bản và Pháp. Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội được quản lý bởi Nguyễn Hải Thần. Tướng Trương Phát Khuê đã khôn khéo ngăn chặn Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh tham gia liên minh, vì mục tiêu chính của ông là ảnh hưởng của Trung Quốc ở Đông Dương. Quốc Dân Đảng đã hỗ trợ những người Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc này trong Thế chiến thứ hai để chống lại lực lượng Nhật Bản.

Tiêu ngữ "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc" của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam được trích lược từ Chủ nghĩa Tam dân.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chủ nghĩa Tam Dân** hay **Học thuyết Tam Dân** (phồn thể: 三民主義, giản thể: 三民主义) là một cương lĩnh chính trị do Tôn Dật Tiên đề xuất, với tinh thần biến đất nước Trung Hoa
Các đế quốc thực dân trên thế giới vào năm 1898, trước khi nổ ra [[Chiến tranh Tây Ban Nha–Mỹ và Chiến tranh Boer]] Các đế quốc thực dân trên thế giới vào năm 1800
**Chủ nghĩa đa dân tộc** là sự cùng tồn tại của hai hay nhiều nhóm dân tộc (cộng đồng) cùng sống trong một chính thể. Khái niệm này nhằm chỉ đến quốc gia có nhiều
**Việt Nam Quốc Dân Đảng** (**VNQDĐ**; chữ Hán: ), gọi tắt là **Việt Quốc**, là một đảng chính trị dân tộc và xã hội chủ nghĩa dân chủ chủ trương tìm kiếm độc lập khỏi
thumb|[[Cecil Rhodes và dự án đường sắt Cape-Cairo. Rhodes thích "tô bản đồ nước Anh màu đỏ" và tuyên bố: "tất cả những ngôi sao này... những thế giới bao la vẫn còn ngoài tầm
, cũng thường được gọi với tên phiên âm của nó là **Kuomintang** (**KMT**; ), là chính đảng do Tôn Trung Sơn và các chí sỹ của ông sáng lập và tồn tại cho đến
**Chủ nghĩa Marx** hay **Mác-xít** (phiên âm từ Marxist) là hệ thống học thuyết triết học, lịch sử và kinh tế chính trị dựa trên các tác phẩm của Karl Marx (1818 - 1883) và
right|Biểu tình của những người theo chủ nghĩa xã hội vào [[Ngày Quốc tế Lao động 1912 tại Union Square ở Thành phố New York]] **Chủ nghĩa xã hội** (; ; Hán: 社會主義; Nôm: 主義社會)
**Chủ nghĩa tự do hiện đại Hoa Kỳ** là phiên bản chủ đạo của chủ nghĩa tự do tại Hoa Kỳ. Nó kết hợp ý tưởng của tự do dân sự (_civil liberty_) và bình
**Chủ nghĩa duy vật**, còn gọi là **thuyết duy vật ** hay **duy vật luận** (), là một trường phái triết học, một thế giới quan, một hình thức của chủ nghĩa triết học nhất
**Chủ nghĩa dân túy** (, Hán-Việt: _dân túy chủ nghĩa_; ) đề cập đến một loạt các lập trường chính trị nhấn mạnh ý tưởng về "nhân dân" và thường đặt nhóm này chống lại
:_Bài này nói về chủ nghĩa cộng sản như một hình thái xã hội và như một phong trào chính trị. Xin xem bài hệ thống xã hội chủ nghĩa, đảng cộng sản và chủ
Các quốc gia trên thế giới có đặt căn cứ quân sự của Hoa Kỳ. **Chủ nghĩa đế quốc Mỹ** () là một thuật ngữ nói về sự bành trướng chính trị, kinh tế, quân
thế=|nhỏ| [[Tuyên truyền chống cộng của Hoa Kỳ những năm 1950, đặc biệt đề cập đến ngành công nghiệp giải trí ]] **Chủ nghĩa McCarthy** (tiếng Anh: **McCarthyism**) là thuật ngữ nói về việc cáo
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Flag_of_the_Republican_People's_Party_(Turkey).svg|nhỏ|261x261px|Lục Tiễn **Chủ nghĩa Kemal** (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: _Kemalizm_), **chủ nghĩa Atatürk** (_Atatürkçülük, Atatürkçü düşünce_) hay **Lục Tiễn** (_Altı Ok_) là tư tưởng kiến quốc của Nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, theo Mustafa
Xuất bản tuyên truyền thuộc địa năm 1898. **Hệ tư tưởng thực dân Pháp** là một hình thái ý thức, khái niệm và biểu hiện nhằm xúc tiến và bảo vệ ý tưởng về các
phải|thumb|Lãnh thổ của [[người Hán từ lưu vực Hoàng Hà đã bành trướng sang các lãnh thổ lân cận.]] **_Chủ nghĩa đế quốc Trung Hoa_** (giản thể: **中华帝国主义**, phồn thể: **中華帝國主義**, **bính âm: Zhōnghuá dìguó
**Chủ nghĩa dân tộc kinh tế**, còn được gọi là **chủ nghĩa yêu nước kinh tế** và **chủ nghĩa dân túy kinh tế**, là một hệ tư tưởng ủng hộ chủ nghĩa can thiệp của
nhỏ|phải|[[Theodor Herzl (1860-1904) được coi là người sáng lập Chủ nghĩa Sion hiện đại. Trong cuốn sách _Der Judenstaat_ vào năm 1896, ông đã hình dung ra việc thành lập một nhà nước Do Thái
**Chủ nghĩa Tân đế quốc** hay **Chủ nghĩa đế quốc mới** () đặc trưng cho thời kỳ bành trướng thuộc địa của các cường quốc châu Âu, Hoa Kỳ và Nhật Bản trong cuối thế
**Chủ nghĩa chống đế quốc** hay **chủ nghĩa phản đế** trong chính trị học và quan hệ quốc tế là sự phản đối chủ nghĩa đế quốc hoặc chủ nghĩa thực dân mới. Chủ nghĩa
**_Le Livre noir du communisme: Crimes, terreur, répression_** (tạm dịch: _Quyển sách đen của chủ nghĩa cộng sản: Tội ác, khủng bố, đàn áp_) là một quyển sách liệt kê các tội ác của các
nhỏ|300x300px|Mô hình phát triển tư bản chủ nghĩa của Max Weber **Lịch sử chủ nghĩa tư bản** có nguồn gốc đa dạng và nhiều tranh luận, nhưng chủ nghĩa tư bản chính thức thường được
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Armenia** ( _Haykakan Sovetakan Soc’ialistakan Hanrapetut’yun_; _Armjanskaja Sovetskaja Sotsialističeskaja Respublika_), cũng viết tắt là **CHXHCNXV Armenia** hay **Armenia Xô viết**, là một trong 15 nước cộng hòa
nhỏ|[[Ze'ev Jabotinsky]] **Chủ nghĩa phục quốc Do Thái xét lại** (tiếng Hebrew: ציונות רוויזיוניסטית) hay **Chủ nghĩa Zion xét lại** là một phong trào trong Chủ nghĩa phục quốc Do Thái do Ze'ev Jabotinsky khởi
**Chủ nghĩa duy tâm**, còn gọi là **thuyết duy tâm** hay **duy tâm luận** (), là trường phái triết học khẳng định rằng mọi thứ đều tồn tại bên trong tinh thần và thuộc về
**Chủ nghĩa vô thần**, **thuyết vô thần** hay **vô thần luận**, theo nghĩa rộng nhất, là sự "thiếu vắng" niềm tin vào sự tồn tại của thần linh. Theo nghĩa hẹp hơn, chủ nghĩa vô
**Chủ nghĩa tự do** là một hệ tư tưởng, quan điểm triết học, và truyền thống chính trị dựa trên các giá trị về tự do và bình đẳng. Chủ nghĩa tự do có nguồn
**Chủ nghĩa cộng sản vô trị**, **chủ nghĩa cộng sản vô chính phủ** () hay **chủ nghĩa cộng sản tự do** là một học thuyết của chủ nghĩa vô trị, chủ trương thủ tiêu nhà
**Chủ nghĩa tư bản** (Chữ Hán: 主義資本; tiếng Anh: _capitalism_) là một hệ thống kinh tế dựa trên quyền sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất và hoạt động sản xuất vì
thumb|right|Thuận chiều kim đồng hồ từ góc trên bên trái: [[Søren Kierkegaard, Fyodor Dostoevsky, Jean-Paul Sartre, Friedrich Nietzsche.]] **Chủ nghĩa hiện sinh** hay **thuyết hiện sinh** là luồng tư tưởng triết học của một nhóm
**Chủ nghĩa vô trị** hay **chủ nghĩa vô chính phủ** là một trường phái triết học và phong trào chính trị chủ trương hoài nghi bất cứ sự hợp thức hóa nào về chính quyền,
**Chủ nghĩa bảo thủ** (tiếng Pháp: _conservatisme_, tiếng Anh: _conservatism_, gốc từ tiếng Latinh _conservo_ — giữ gìn) là các triết lý chính trị và xã hội thúc đẩy các thiết chế xã hội truyền
**Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa** ( - **NSDAP**), thường được gọi là **Đảng Quốc Xã** trong tiếng Việt, là đảng cầm quyền Đức trong thời kỳ Đức Quốc Xã. Lãnh
**Chủ nghĩa vị lợi**, hay **chủ nghĩa công lợi** còn gọi là **thuyết duy lợi** hay **thuyết công lợi** (tiếng Anh: _Utilitarianism_) là một triết lý đạo đức, một trường phái triết học xã hội
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina** (, УРСР; УССР), viết tắt là **CHXHCNXV Ukraina** và còn gọi là **Ukraina Xô viết**, là một trong các nước cộng hòa cấu thành của Liên
**Chủ nghĩa kinh nghiệm** hay **chủ nghĩa duy nghiệm** (tiếng Anh: **Empiricism**) là một khuynh hướng lý thuyết về tri thức triết học với đặc điểm nhấn mạnh vai trò của trải nghiệm. Trải nghiệm
**Chủ nghĩa hoài nghi triết học** (tiếng Anh: _philosophical skepticism_) là trường phái tư tưởng triết học xem xét một cách hệ thống và với thái độ phê phán về quan niệm rằng tri thức
nhỏ|phải|Triết gia [[Friedrich Engels|F. Engels với các tác phẩm của mình đã đặt nền tảng cho Lý luận của Chủ nghĩa Marx – Lenin về nhà nước.]] **Học thuyết về Nhà nước của Chủ nghĩa
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga** ( ) hoặc gọi tắt là **Nga Xô viết** là nước cộng hòa Xô viết lớn nhất và đông dân nhất trong số mười
[[Caspar David Friedrich, _Kẻ lãng du trên biển sương mù,_ 38.58 × 29.13 inches, 1818, tranh sơn dầu, Kunsthalle Hamburg]] [[Eugène Delacroix, _Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân_ 1830]] Théodore Géricault, _[[Chiếc bè
**Chủ nghĩa cá nhân** hay còn gọi là **cá nhân chủ nghĩa**, **chủ nghĩa cá thể** là một thuật ngữ được sử dụng để mô tả một cách nhìn nhận trên phương diện xã hội,
**Ngày Âu Châu tưởng niệm các nạn nhân của chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Quốc xã**, còn được biết tới như **Ngày dải băng Đen** tại một vài quốc gia, mà được cử hành
**Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam** (gọi tắt: **Chủ tịch nước**) là nguyên thủ quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là người đứng đầu
**Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư**, gọi tắt là **CHLBXHCN Nam Tư** là nhà nước Nam Tư được thành lập sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai và tồn tại
nhỏ|Áp phích tuyên truyền chống cộng sản của Đức năm 1937. **Chủ nghĩa chống Cộng sản** là tập hợp các lập trường và quan điểm chống lại chủ nghĩa Cộng sản. Chủ nghĩa chống Cộng
**Phong trào giải phóng dân tộc** là phong trào đấu tranh đòi quyền độc lập dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc của các nước thuộc địa trên thế giới trong thế kỷ
nhỏ|phải|Hai bạn nữ trẻ mặc đồ quân nhân Nga Xô Viết trong dịp kỷ niệm ngày Chiến thắng vào năm 2014 **Yêu nước xã hội chủ nghĩa** (_Socialist patriotism_) hay **Yêu tổ quốc xã hội
**Chủ nghĩa tự do cổ điển** là một ý thức hệ chính trị và là một nhánh của chủ nghĩa tự do vận động cho tự do dân sự và tự do chính trị với
**Chủ nghĩa phúc âm** (tiếng Anh: _evangelicalism_), cũng gọi là **phái phúc âm** hay **phong trào Tin Lành phúc âm**, là thuật từ thường được dùng để chỉ một trào lưu liên hệ phái thuộc