✨Chủ nghĩa vị lợi

Chủ nghĩa vị lợi

Chủ nghĩa vị lợi, hay chủ nghĩa công lợi còn gọi là thuyết duy lợi hay thuyết công lợi (tiếng Anh: Utilitarianism) là một triết lý đạo đức, một trường phái triết học xã hội và cũng đóng vai trò quan trọng trong ngành khoa học kinh tế. Chủ nghĩa này cho rằng hành động tốt nhất là hành động đạt được một cách cao nhất những gì được cho là hữu ích, lợi ích chung cho tất cả những người có liên quan. "Lợi ích" được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, thường là theo thuật ngữ "hạnh phúc của các sinh vật sống", như là con người hay các động vật khác. Jeremy Bentham, người đặt nền móng cho chủ nghĩa vị lợi, mô tả "lợi ích" như tất cả những gì làm hài lòng chúng ta xuất phát từ hành động, không gây ra đau đớn cho bất kì ai liên quan.

Chủ nghĩa vị lợi là một hình thức khác của chủ nghĩa hệ quả hay hệ quả luận (consequentialism), thuyết này tuyên bố rằng kết quả của bất kì hành động nào là tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá sự đúng và sai của hành động đó. Không giống như các hình thức khác của thuyết hệ quả, như là chủ nghĩa vị kỉ (egoism), chủ nghĩa vị lợi cho rằng lợi ích của tất cả mọi người là công bằng. Những người ủng hộ chủ nghĩa vị lợi đã không hoàn toàn đồng ý với nhau trong một số điểm. Mỗi cá nhân nên hành động theo lợi ích (Chủ nghĩa vị lợi hành động) hay, mỗi người nên tuân theo những quy tắc đạo đức (Chủ nghĩa vị lợi quy tắc) Lợi ích được tính như tổng cộng (Chủ nghĩa vị lợi tổng cộng) hay trung bình (Chủ nghĩa vị lợi trung bình).

Mặc dù mầm mống tư tưởng của học thuyết này đã xuất phát từ những triết gia hưởng lạc (hedonist) như Aristippus và Epicurus, những người xem hạnh phúc là điều tốt duy nhất, nhưng nguồn gốc của chủ nghĩa vị lợi thực sự bắt đầu với Bentham, bao gồm John Stuart Mill, Henry Sidgwick, R. M. Hare và Peter Singer. Học thuyết này được ứng dụng trong việc giải quyết phúc lợi xã hội, nạn đói trên thế giới, đạo đức trong việc chăm sóc động vật và sự cần thiết để tránh những thảm họa toàn cầu trong nhân loại. Nếu lợi ích đạt được nhiều hơn cái giá phải trả, thì sẽ được coi là một động thái hợp với luân thường đạo lý, còn không thì sẽ đi ngược lại với đạo lý.

Nguyên từ

Chủ nghĩa Bentham, triết học vị lợi do Jeremy Bentham sáng tạo ra, được sửa đổi một cách đáng kể bởi người kế nhiệm ông, John Stuart Mill, cũng là người làm cho thuật ngữ " chủ nghĩa vị lợi " ("Utilitarianism") phổ biến. Trong năm 1861, Mill thừa nhận trong một chú thích rằng, mặc dù "ông ấy tin rằng mình là người đầu tiên đã làm cho từ ngữ "người vị lợi"("utilitarian") được thông dụng, nhưng ông không sáng tạo ra nó. Ông sử dụng nó như một từ được mô tả trong cuốn tiểu thuyết "Annals of the Parish" năm 1821 của John Galt". Mill dường như đã không biết rằng Bentham đã sử dụng thuật ngữ "người vị lợi" ("utilitarian") trong bức thư gửi đến George Wilson năm 1781 và bức thư gửi đến Étienne Dumont năm 1802. Có rất nhiều sự khác nhau trong thuyết hệ quả cũng đã tồn tại trong thời Cổ đại và Trung cổ, như là thuyết hệ quả nhà nước (state consequentialism) của Mặc gia hay là triết học chính trị của Niccolò Machiavelli.

Thuyết hệ quả của Mặc gia ủng hộ những đạo đức tốt của cộng đồng bao gồm sự ổn định chính trị, sự phát triển dân số, sự giàu có, nhưng không ủng hộ quan điểm của "người theo chủ nghĩa vị lợi" về sự tối đa hạnh phúc cho mỗi cá nhân. Machiavelli cũng là người theo thuyết hệ quả. Ông tin rằng các hành động của một Quốc gia, dù cho độc ác hay tàn nhẫn đến mức nào, cũng luôn phải xây dựng hướng đến một cộng đồng tốt đẹp. Chủ nghĩa vị lợi như một phong trào đạo đức riêng biệt chỉ mới được biết đến vào thế kỉ 18.

Mặc dù Chủ nghĩa vị lợi thường được cho là bắt đầu với Jeremy Bentham, nhưng từ sớm hơn đã có những nhà tư tưởng đại diện cho những học thuyết nổi bật tương tự. Trong tác phẩm "An Enquiry Concerning the Principles of Morals", David Hume viết:

Hume đã nghiên cứu các tác phẩm và trao đổi với nhà triết học khai sáng Francis Hutcheson, người đầu tiên giới thiệu cụm từ chủ nghĩa vị lợi quan trọng. Trong tác phẩm "An Inquiry into the Original of Our Ideas of Beauty and Virtue"(1725), Hutcheson phát biểu rằng khi phải lựa chọn một hành động đúng đắn nhất thì mức độ của một hành động đạo đức sẽ tỉ lệ thuận với số lượng người mà một hành động cụ thể đem hạnh phúc tới cho họ. Theo cách nghĩ này, mức độ của một hành động xấu xa và tội lỗi sẽ tỉ lệ với số lượng người mà hành động đó gây đau khổ. Hành động tốt nhất là hành động đạt tới hạnh phúc cao nhất cho số lượng người lớn nhất và hành động tồi tệ nhất là hành động gây ra những đau khổ quá lớn.

Trong 3 phiên bản đầu tiên của cuốn sách, Hutcheson cũng đề cập tới nhiều công thức toán học khác nhau "... để định được mức độ đạo đức của các hành động khác nhau". Về vấn đề này, Hutcheson đã đưa ra những tư tưởng về những phép toán định lượng mức độ thỏa mãn trước Bentham.

Một số giả thuyết cho rằng John Gay đã phát triển hệ thống lý luận đầu tiên về đạo đức của người theo chủ nghĩa vị lợi. Trong tác phẩm "Concerning the Fundamental Principle of Virtue or Morality"(1731), Gay tranh luận rằng:

Sự truy cầu hạnh phúc được đưa ra trong một các giải thích cơ bản về Thần học:

nhỏ|Chủ nghĩa thực tế hiện đại của Thomas Rawson Birks 1874

Chủ nghĩa vị lợi thần học của Gay được phát triển và phổ biến bởi William Paley. Paley không phải là nhà tư tưởng khai phá và phần triết học trong di sản của ông về Đạo đức là " một tập hợp tư tưởng được phát triển bởi những người khác và được giảng dạy cho sinh viên hơn là được thảo luận giữa các nhà chuyên môn. " Tuy nhiên, Cuốn sách của ông "The Principles of Moral and Political Philosophy" (1785) là một giáo trình được yêu cầu tại trường Cambridge và Smith nói rằng Giáo trình của Paley "đã từng được biết nhiều tới trong các trường Cao đẳng Mỹ như những học sinh tập đọc và tập đánh vần các tác phẩm của William McGuffey và Noah Webster trong các trường tiểu học."

Mặc dù, hiện nay triết học của ông đã hầu như bị quên lãng trên đấu trường Triết học, Schneewind viết rằng "Chủ nghĩa vị lợi lần đầu tiên trở nên phổ biến tại Anh thông qua các tác phẩm của William Paley." Hiện nay, những dấu ấn bị quên lãng của Paley có thể được đánh giá từ tựa đề tác phẩm của Thomas Rawson Birks xuất bản năm 1874 "Modern Utilitarianism or the Systems of Paley, Bentham and Mill Examined and Compared". Ngoài việc lặp lại quan điểm cho rằng hạnh phúc như là một mục đích được chôn sâu trong bản tính tự nhiên của Chúa trời, Paley cũng thảo luận các quy luật. Ông viết:

Chủ nghĩa thực tế cổ điển

Jeremy Bentham

phải|nhỏ|Jeremy Bentham.

Cuốn sách của Bentham, An Introduction to the Principles of Morals and Legislation, được in năm 1780 nhưng không được xuất bản cho đến tận năm 1789. Có lẽ Bentham được khích lệ trong việc xuất bản sau khi ông thấy sự thành công của Paley với tác phẩm "The Principles of Moral and Political Philosophy". Cuốn sách của Bentham không thành công ngay lập tức nhưng tư tưởng của ông được lan truyền rộng rãi hơn khi Pierre Étienne Louis Dumont dịch một số bản thảo chọn lọc của Bentham sang tiếng Pháp. Tác phẩm Traité de legislation civile et pénale được xuất bản năm 1802 và sau đó được dịch trở lại ra tiếng Anh bởi Hildreth thành The Theory of Legislation, mặc dù vào khoảng thời gian đó một phần lớn các tác phẩm của Dumont đã được dịch lại và gộp vào ấn bản của Sir John Bowring về các tác phẩm của Bentham, được xuất bản thành từng phần từ năm 1838 đến năm 1843.

Những tác phẩm của Bentham mở đầu với một phát biểu về nguyên tắc của sự hữu ích:

Trong Chương VI, Bentham giới thiệu một phương pháp tính giá trị của sự sung sướng và nỗi đau đớn, cái mà được biết như là phương pháp tính toán hưởng lạc. Bentham cho rằng giá trị của sự sung sướng và nỗi đau đớn, xét theo chính nó, có thể được tính toán dựa trên dựa trên cường độ, thời gian, sự chắc chắn/không chắc chắn và mức độ gần/xa. Thêm vào đó, chúng ta cần xem xét "Khuynh hướng của bất kỳ hành động mà từ đó nó được tạo ra" và, vì vậy, tính toán được những hành động được đẻ ra từ đó, hay khả năng nó có thể được những ấn tượng cùng loại theo sau và tính nguyên thủy của nó, hay khả năng nó không được những ấn tượng của loại đối nghịch theo sau. Cuối cùng, cần xem xét mức độ, số lượng người bị ảnh hưởng bởi hành động đó.

Có lẽ biết rằng Hutcheson về sau đã từ bỏ các công thức cho việc tính toán hạnh phúc tuyệt đối vì " chúng trở nên không hữu ích và bị một số độc giả phản đối", Bentham quả quyết rằng, không có gì lạ thường hay không xác đáng về phương pháp của ông, vì "Trong tất cả điều này không có gì ngoại trừ thực tế trong bản tính con người, bất cứ ở đâu họ có một cái nhìn rõ ràng về niềm hứng thú của họ, là hoàn toàn phù hợp."

Rosen cảnh báo rằng việc mô tả Chủ nghĩa vị lợi có thể "ít giống với những nhà theo chủ nghĩa vị lợi thời kì đầu như Bentham và J. S. Mill" và có thể "là một phiên bản thô hơn của chủ nghĩa vị lợi hành động được hình thành vào thế kỉ 20 như một người nộm bị tấn công và bị loại bỏ." Tác phẩm "Utilitarianism" của Mill xuất hiện lần đầu tiên như chuỗi ba bài báo liên tiếp trên tạp chí Fraser's Magazine và được tái bản như một cuốn sách vào năm 1863

Những sự thỏa mãn cao hơn và thấp hơn

Mill hoàn toàn từ chối một phương pháp định lượng dành cho "sự hữu ích" và nói:

Mill chú thích rằng, trái với những gì các nhà phê bình của nó có thể nói, "không có thuyết nào của trường phái Epicurean được biết tới mà không đề cập đến sự thỏa mãn của trí tuệ.... Một giá trị cao hơn nhiều về sự thỏa mãn so với các sự thỏa mãn khác đến từ ngũ quan.". Tuy nhiên, ông chấp nhận đây là bình thường vì sự thỏa mãn về trí tuệ được cho là có những lợi ích không thể chối cãi được, tức là nó có giá trị lâu bền hơn, an toàn, vô giá,...". Thay vào đó, Mill tranh luận rằng một vài sự thỏa mãn về bản chất là tốt hơn những cái còn lại.

Những lời buộc tội rằng Chủ nghĩa hưởng lạc là "Học thuyết chỉ dành cho những con lợn" có một lịch sử lâu dài. Trong tác phẩm Nicomachean Ethics (Quyển 1 chương 5), Aristotle nói rằng chấp nhận một cuộc sống tốt đẹp đi cùng với một cuộc sống hưởng thụ là thích một cuộc sống phù hợp với những con thú. Những nhà chủ nghĩa vị lợi thần học có một lựa chọn khác khi cho rằng việc theo đuổi sự hạnh phúc là tuân theo ý muốn của Chúa trời; những người vị lợi hưởng lạc cần một sự biện hộ khác. Tiếp cận của Mill là để tranh luận rằng sự thỏa mãn của trí tuệ về bản chất là cao cấp hơn sự thỏa mãn về vật chất.

Mill tranh luận rằng nếu những con người "biết một cách rõ ràng" về hai thỏa mãn, thích một cái hơn cái còn lại thậm chí nếu nó đi kèm theo nhiều bất mãn hơn và "sẽ không từ chối nó để đổi lấy bất kể số lượng của sự thỏa mãn còn lại", thì nó là đúng để cho rằng thỏa mãn đó có chất lượng tốt hơn. Mill nhận ra rằng những "vị thẩm phán có đủ khả năng" này không phải lúc nào cũng đồng tình với nhau, và tuyên bố rằng, trong trường hợp có tranh chấp, những phán quyết theo số đông được chấp nhận như kết quả cuối cùng. Mill cũng thừa nhận rằng "Nhiều người có yêu cầu sự thỏa mãn cao hơn, đôi khi, dưới ảnh hưởng của những dục vọng xấu, hoãn chúng để nhận những thỏa mãn thấp hơn. Nhưng điều này cũng hoàn toàn phù hợp với sự đánh giá đầy đủ về tính ưu việt nội tại của thỏa mãn cao hơn."

Mill nói rằng sự lôi cuốn này đối với những người đã trải qua những sự thỏa mãn liên quan là không khác biệt với những gì chắc chắn sẽ diễn ra khi đánh giá số lượng của sự thỏa mãn, vì không có cách nào khác để đo sự đau đớn nhất giữa hai nỗi đau, hay sự sung sướng nhất của hai sự thỏa mãn." "Không thể nào tranh luận rằng khả năng hưởng thụ của một sinh vật sống là thấp, có một cơ hội lớn nhất cho phép họ thỏa mãn một cách đầy đủ nhất; và một sinh vật ở đẳng cấp cao hơn sẽ luôn cảm thấy mọi hạnh phúc mà nó có thể mong đợi, là không hoàn hảo."

Chứng minh của Mill về nguyên tắc của lợi ích

Trong Chương 4 của tác phẩm "Utilitarianism", Mill xem xét chứng minh nào có thể đưa ra cho nguyên tắc của lợi ích. Ông nói:

Có một số ý kiến cho rằng Mill đang đưa ra một số quan điểm sai lầm. Ông bị cho là đã phạm phải tư tưởng sai lầm tự nhiên (naturalistic fallacy), vì ông đang cố gắng suy luận những gì con người nên làm từ những gì họ làm trong thực tế; sự sai lầm về khái niệm (fallacy of equivocation), vì ông chuyển từ sự kiện rằng một cái gì được ham muốn, tức là nó có thể được ham muốn, rồi đưa ra kết luận nó được ham muốn, tức là nó nên được ham muốn; và sai lầm thành phần (fallacy of composition), vì sự kiện là con người mong muốn hạnh phúc riêng của họ không có nghĩa là toàn bộ tất cả mọi người đều thích hạnh phúc đó.

Những lời chỉ trích này bắt đầu xuất hiện trong suốt cuộc đời Mill, ngay sau khi tác phẩm "Utilitarianism" được xuất bản, kéo dài hơn một thế kỉ, mặc dù ý kiến đa số đã thay đổi gần đây. Những lý luận bảo vệ quan điểm của Mill chống lại cả ba lời cáo buộc trên, với mỗi chương cho một lời cáo buộc, có thể đọc được trong tác phẩm "Necip Fikri Alican's Mill's Principle of Utility: A Defense of John Stuart Mill's Notorious Proof" (1994). Đây là tác phẩm đầu tiên và cũng là tác phẩm duy nhất, một tác phẩm lớn trong vấn đề bảo vệ quan điểm của Mill. Tuy nhiên, những điều sai lầm bị cáo buộc trong bằng chứng tiếp tục thu hút sự chú ý hàn lâm trong các bài viết trên tạp chí và các chương sách.

Hall và Popkin bảo vệ Mill chống lại những lời chỉ trích khi đề cập đến việc ông bắt đầu Chương 4 bởi một khẳng định rằng "Câu hỏi về mục đích tuyệt đối không cần phải thừa nhận các chứng cứ, trong sự chấp nhận thông thường của các thuật ngữ." và rằng đây là "bình thường đối với tất cả những nguyên tắc đầu tiên". Theo Hall và Popkin, vì vậy, Mill không nỗ lực để "khẳng định rằng những gì con người yêu thích là có thể được yêu thích mà chỉ nỗ lực để làm cho các nguyên tắc có thể chấp nhận được.". Những bằng chứng của Mill đang đề cập "chỉ bao gồm một vài sự xem xét mà Mill nghĩ có thể thuyết phục một người trung thực và tỉnh táo chấp nhận chủ nghĩa vị lợi." Having claimed that people do, in fact, desire happiness, Mill now has to show that it is the only thing they desire. Mill anticipates the objection that people desire other things such as virtue. He argues that whilst people might start desiring virtue as a means to happiness, eventually, it becomes part of someone's happiness and is then desired as an end in itself. Đã tuyên bố rằng con người, trong thực tế, mong muốn sự hạnh phúc, Mill buộc phải chứng minh rằng hạnh phúc là điều duy nhất con người mong muốn. Mill cũng thấy trước những tranh biện rằng con người cũng mong muốn một cuộc sống đức hạnh. Mill nói rằng khi con người bắt đầu ham muốn đạo đức như một ý nghĩa của hạnh phúc, cuối cùng, đạo đức trở thành một phần của hạnh phúc con người và vì vậy mong muốn một cuộc sống đức hạnh không vì bất kì điều gì khác.

Sự phát triển trong thế kỉ 20

Chủ nghĩa vị lợi lý tưởng

Khái niệm chủ nghĩa vị lợi lý tưởng được sử dụng lần đầu tiên bởi Hastings Rashdall trong tác phẩm "The Theory of Good and Evil" xuất bản năm 1907, nhưng khái niệm này thường được cho gắn liền với G. E. Moore. Trong tác phẩm "Ethics"(1912), Moore bác bỏ một chủ nghĩa vị lợi thuần tính hưởng lạc và tranh luận rằng có một loạt các giá trị có thể được tối đa hóa. Chiến lược của Moore là chứng minh rằng thật không đúng về mặt trực giác khi cho rằng sự thỏa mãn là những điều tốt duy nhất. Ông khẳng định rằng: Moore thừa nhận rằng không thể chứng minh trường hợp này, nhưng ông cho rằng nó rất rõ ràng về mặt trực giác rằng thậm chí nếu sự thỏa mãn đat được là bằng nhau thì thế giới có chứa những giá trị như cái đẹp và tình yêu sẽ là một thế giới tốt hơn. Ông cũng nói thêm rằng, nếu một người có quan điểm trái ngược với điều này thì "Tôi nghĩ rằng người ấy chắc chắn sai lầm."

Chủ nghĩa thực tế hành động và chủ nghĩa thực tế nguyên tắc

Giữa thế kỉ 20, một số nhà triết học tập trung vào nguyên tắc của những người theo Chủ nghĩa thực tế. Có một điều được mọi người chấp nhận là chúng ta cần có những nguyên tắc để giúp bản thân lựa chọn những hành động đúng vì các vấn đề của việc dự đoán các kết quả trong từng và tất cả các cơ hội sẽ hầu như chắc chắn làm cho chúng ta hầu như chọn một phương án thấp hơn so với một phương án tối ưu. Paley đã chứng minh được việc ứng dụng các nguyên tắc và Mill nói:

Tuy nhiên, Chủ nghĩa thực tế nguyên tắc đưa ra nhiều vai trò quan trọng của các nguyên tắc. Những vai trò này được cho rằng sẽ bảo vệ thuyết này từ một số lời chỉ trích gay gắt, những vấn đề chính liên quan đến công lý và việc tôn trọng lời hứa. Trong suốt những năm 1950 và 1960, các bài báo được xuất bản có cả ủng hộ và đả kích một hình thức mới của Chủ nghĩa thực tế, và thông qua việc tranh luận về học thuyết này, tên gọi Chủ nghĩa thực tế nguyên tắc ra đời. Trong lời giới thiệu đến một tuyển tập của những bài báo này, các nhà biên tập có thể nói: "Sự phát triển của học thuyết này là một quá trình biện chứng của sự chuẩn bị một cách chi tiết, sự chỉ trích, sự đáp trả và tiếp tục chuẩn bị chi tiết hơn nữa; những bằng chứng cho quá trình này mô tả một cách chính xác sự phát triển từ nhiều phía của một học thuyết triết học."

Smart và McCloskey ban đầu dùng những thuật ngữ Chủ nghĩa thực tế "vượt mức"("extreme") và Chủ nghĩa thực tế "giới hạn"("restricted") nhưng cuối cùng tất cả đều đồng thuận sử dụng thuật ngữ Chủ nghĩa thực tế "hành động"("act") và Chủ nghĩa thực tế "nguyên tắc"("rule").

Sự khác biệt cơ bản giữa Chủ nghĩa thực tế hành động và nguyên tắc là việc xác định có hay không một hành động là hành động đúng đắn. Chủ nghĩa thực tế hành động cho rằng một hành động là đúng nếu nó tối đa hóa được những lợi ích; Chủ nghĩa thực tế nguyên tắc cho rằng một hành động là đúng nếu nó dựa vào những nguyên tắc đảm bảo tối đa hóa những lợi ích.

Trong năm 1956, Urmson xuất bản một bài báo gây nhiều ảnh hưởng. Bài báo này tranh luận rằng Mill đã giải thích những nguyên tắc trong nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa thực tế. Từ đó trở về sau, các bài báo đã tranh luận sự giải thích này của Mill. Có thể, không quan trọng khi Mill đã rất cố gắng đề chứng minh và vì vậy những chứng cứ trong những tác phẩm của ông không tránh khỏi sự lẫn lộn. Bộ sưu tập của Mill được xuất bản năm 1977 có một bức thư mà ông viết:Điều này dường như làm nghiêng cán cân theo hướng cho rằng Mill là một người theo chủ nghĩa thực tế hành động.

Một vài sách giáo khoa trường học và ít nhất một ban kiểm tra tại Anh Quốc đưa ra một sự phân biệt rõ rang hơn giữa Chủ nghĩa thực tế nguyên tắc mạnh và Chủ nghĩa thực tế nguyên tắc yếu. Tuy nhiên, không có sự rõ ràng này trong các sách giáo khoa tại các trường Đại học chuyên về văn học.

Đã từng có những cuộc tranh luận rằng Chủ nghĩa thực tế nguyên tắc thất bại hoàn toàn trước Chủ nghĩa thực tế hành động, vì dù có bất kì nguyên tắc nào, trong trường hợp phá bỏ Luật để làm được những việc hữu ích, các nguyên tắc có thể được sửa đổi bằng cách thêm một số nguyên tắc phụ để giải quyết những trường hợp được xem là ngoại lệ. Điều này sẽ đúng cho tất cả các trường hợp ngoại lệ, và vì vậy các "nguyên tắc" có bao nhiêu trường hợp ngoại lệ thì có bấy nhiêu nguyên tắc phụ được thêm vào, điều này, về mặt mục đích, làm cho các nhà kinh tế có thể làm bất kì điều gì để tạo ra lợi ích cho mình..

Chủ nghĩa thực tế hai cấp độ

Trong tác phẩm "Principles" xuất bản năm 1973) R. M. Hare chấp nhận rằng Chủ nghĩa thực tế nguyên tắc thất bại trước Chủ nghĩa thực tế hành động nhưng tuyên bố rằng đây là kết quả cho phép các nguyên tắc "trở nên đặc thù như chúng ta mong muốn". Ông tranh luận rằng một trong những lý do chính cho việc giới thiệu Chủ nghĩa thực tế nguyên tắc là để tạo ra công bằng đối với những nguyên tắc chung mà mọi người cần cho việc giáo dục đạo đức và phát triển nhân cách và ông cũng đề cập rằng "Sự khác biệt giữa Chủ nghĩa thực tế hành động và Chủ nghĩa thực tế nguyên tắc có thể được chỉ ra bởi việc giảm những nguyên tắc đặc thù, tức là, tăng những nguyên tắc chung." Điểm khác biệt này giữa một "Chủ nghĩa thực tế nguyên tắc đặc thù"(Chủ nghĩa thực tế nguyên tắc thất bại trước Chủ nghĩa thực tế hành động) và "Chủ nghĩa thực tế nguyên tắc chung" hình thành những yếu tố cơ bản về Chủ nghĩa thực tế hai cấp độ của Hare..

Khi chúng ta "đang đóng vai Chúa hay người quan sát lý tưởng", chúng ta dùng một hình thức đặc biệt, và chúng ta sẽ cần làm điều này khi chúng ta quyết định những gì là những nguyên tắc chung để dạy và thực hành theo. Khi chúng ta đang "cố gắng khắc sâu" những bài học đạo đức hay trong những hoàn cảnh mà thành kiến trong bản tính con người dường như ngăn cản chúng ta thực hiện những tính toán chính xác, thì chúng ta nên ứng dụng nhiều hơn chủ nghĩa thực tế nguyên tắc thông thường.

Hare tranh luận rằng, trong thực tế, hầu hết mọi lúc, chúng ta nên tuân theo những nguyên tắc chung:Trong tác phẩm "Moral Thinking" xuất bản năm 1981, Hare mô tả 2 dạng "vượt mức". Những "thiên thần cao cấp"("archangel") là những người được tưởng tượng có kiến thức hoàn hảo về các tình huống và không có thành kiến cá nhân hay không có sự yếu đuối và luôn luôn suy nghĩ phê phán một cách đạo đức để quyết định điều đúng đắn phải làm; những "người lao động tay chân thấp kém"("prole") cũng là một nhân vật tưởng tượng người hoàn toàn không có khả năng suy nghĩ phê phán và không có khả năng nào khác ngoài trừ những suy nghĩ đao đức một cách bản năng, cần thiết trong cuộc sống buộc phải tuân theo những nguyên tắc đạo đức chung mà học được dạy hoặc học thông qua khả năng bắt chước. Không thể có những người là "Thiên thần cấp cao" và những người khác là "người lao động tay chân thấp kém", mà đúng hơn là "Tất cả chúng ta có những đức tính đó tại những giới hạn và cấp độ khác nhau và tại những thời điểm khác nhau."

Hare không xác định khi nào chúng ta nên nghĩ như một "Thiên thần cấp cao" và khi nào nên nghĩ như một "người lao động tay chân thấp kém" vì điều này sẽ, trong bất kì trường hợp nào, tùy thuộc vào mỗi người. Tuy nhiên, Những suy nghĩ phê phán một cách đạo đức hỗ trợ và ảnh hưởng hơn là suy nghĩ bản năng đạo đức. Suy nghĩ phê phán một cách đạo đức tạo ra, và nếu cần thiết, thay đổi những nguyên tắc đạo đức thông thường. Chúng ta cũng cần đến những suy nghĩ phê phán khi cố gắng giải quyết những tình huống đặc biệt hay trong những trường hợp các nguyên tắc đạo đức bản năng đưa ra những lời khuyên trái ngược nhau.

Chủ nghĩa thực tế ham muốn

Chủ nghĩa thực tế ham muốn(Preference utilitarianism) được nhắc đến lần đầu tiên vào năm 1977 bởi John Harsanyi trong tác phẩm "Morality and the theory of rational behavior", ", nhưng Chủ nghĩa thực tế ham muốn được biết tới nhiều hơn bởi các nhà tư tưởng như R. M. Hare, Peter singer và Richard Brandt.

Harsanyi tuyên bố rằng học thuyết của ông là dựa vào tư tưởng của các nhà triết học khác: Adam Smith, người đánh đồng quan điểm đạo đức với sự công bằng nhưng với một góc nhìn cảm tính hơn; và Kant, người khẳng định các tiêu chí về tính phổ quát, có thể được mô tả như các tiêu chí về sự tác động qua lại lẫn nhau; tiếp theo là những người theo chủ nghĩa thực tế cổ điển, những người biến việc làm lợi tối đa cho xã hội thành các tiêu chí cơ bản của đạo đức; và cuối cùng là "các học thuyết hiện đại về hành vi liều lĩnh và bất chấp mang tính Lý trí, thường được mô tả như "học thuyết quyết định Bayesian"("Bayesian decision theory") ".

Harsanyi phản đối Chủ nghĩa thực tế hưởng lạc vì nó lệ thuộc vào tâm lý lạc hậu khi nói rằng chắc chắn những điều chúng ta làm xuất phát từ việc tối đa hóa sự thỏa mãn và giảm thiểu một cách thấp nhất những đau đớn. Ông cũng phản đối Chủ nghĩa thực tế lý tưởng vì "Chắc chắn là sai khi một quan sát mang tính thực nghiệm cho rằng mục đích duy nhất của con người trong cuộc sống là để có 'một trạng thái tinh thần về các giá trị nội tại'."

Theo Harsanyi, "Chủ nghĩa thực tế ham muốn là một hình thức duy nhất của chủ nghĩa thực tế phù hợp với các nguyên lý triết học quan trọng về sự quyết định tự chủ các ham muốn. Từ đó, tôi đưa ra một nguyên lý rằng, trong việc quyết định những gì là tốt và những gì là xấu cho một cá nhân, tiêu chí quan trọng nhất là những ước mơ và ham muốn của người đó."

Harsanyi cũng thêm hai điều cần lưu ý. Thứ nhất, Con người đôi khi có những ham muốn vô lý. Để giải quyết vấn đề này, Harsanyi phân biệt giữa ham muốn "rõ ràng" và ham muốn "đúng". Ham muốn "rõ ràng" là những ham muốn "biểu hiện thông qua những hành vi bên ngoài của một người, bao gồm những ham muốn do niềm tin sai lầm, hay do không phân tích kĩ lưỡng, hay do những cảm xúc quá mạnh tại một thời điểm lấn át những quyết định của Lý trí" trong khi Ham muốn "đúng" là "những ham muốn một người sẽ có nếu người đó có tất cả những thông tin thực có liên quan, luôn luôn suy nghĩ một cách kĩ lưỡng nhất có thể, và tinh thần người đó phải trong một tình trạng thuận lợi nhất để đưa ra những lựa chọn được suy xét kĩ lưỡng." Ham muốn "đúng" là điều mà Chủ nghĩa thực tế ham muốn muốn đạt tới.

Một cảnh báo thứ hai là những ham muốn chống lại xã hội, như là ham muốn tận hưởng sự đau đớn của người khác(sadism), tánh ghen tị và bất mãn xã hội, buộc phải bị loại trừ. Harsanyi đi đến kết luận này khi tuyên bố rằng những ham muốn này loại trừ một phần những người đó ra khỏi một cộng đồng có đạo đức:

Một vài nhánh khác của Chủ nghĩa Thực tế

Chủ nghĩa thực tế bị động

Trong tác phẩm "The Open Society and its Enemies" (1945), Karl Popper tranh luận rằng những nguyên lý "sự thỏa mãn ở mức tối đa" nên được thay thế bằng những nguyên lý "sự giảm thiểu thấp nhất nỗi đau". Ông nghĩ "Điều đó là không thể thậm chí nguy hiểm khi cố gắng đạt lấy sự thỏa mãn một cách tối đa hay hạnh phúc cho mọi người", vì một nỗ lực như vậy sẽ dẫn tới chế độ một Đảng (totalitarianism). Ông tuyên bố rằng:Thuật ngữ Chủ nghĩa thực tế bị động được giới thiệu bởi R.N.Smart trong một tiêu đề của một bức thư ông trả lời Popper. Trong thư ông cũng tranh luận rằng những nguyên lý bao gồm cả sự tìm kiếm những phương pháp nhanh nhất và ít nhất trong việc giết chết toàn bộ nhân loại.

"Chủ nghĩa Thực tế bị động tuyệt đối", trái lại, chịu đựng sự đau đớn có thể được an ủi bởi những con người có chung hoàn cảnh. "Chủ nghĩa thực tế bị động ham muốn" tránh những vấn đề của việc giết chóc với việc đề cập đến những ham muốn mà việc giết chóc sẽ phá hủy nó, trong khi nó vẫn cần một lời giải thích cho việc tạo ra những cá thể sống mới. Một lời giải thích hợp lý là việc giảm mức độ trung bình của sự thất vọng trong các ham muốn.

Một số nhà tư tưởng khác thấy Chủ nghĩa thực tế bị động như một nhánh của Chủ nghĩa thực tế hưởng lạc hiện đại, một học thuyết ủng hộ việc tránh những nỗi đau hơn là việc tìm kiếm hạnh phúc. Mức độ của nỗi đau về khía cạnh đạo đức có thể tăng lên từ việc sử dụng một thang đo "cảm thông" của người theo Chủ nghĩa thực tế, để mà kết quả là tương tự như kết quả trong "Chủ nghĩa ưu tiên"("prioritarianism"). Những đại diện bi quan của Chủ nghĩa thực tế bị động là các trường phái Phật giáo.

Chủ nghĩa thực tế động lực

"Chủ nghĩa thực tế động lực" được giới thiệu lần đầu tiên bởi Robert Merrihew Adams vào năm 1976. Trong khi "Chủ nghĩa thực tế hành động" yêu cầu chúng ta đưa ra những hành động bằng cách tính toán hành động nào có thể tối đa hóa những lợi ích và "Chủ nghĩa thực tế nguyên tắc" yêu cầu chúng ta thực hiện theo những nguyên tắc đã được chấp nhận để tối đa hóa những lợi ích, thì Chủ nghĩa thực tế động lực "Có những sự tính toán thực tế dùng để lựa chọn những động lực và khuynh hướng tùy theo kết quả hạnh phúc của họ, và những động lực và khuynh hướng đó sau đó ảnh hưởng đến những lựa chọn hành động của chúng ta."

Những cuộc tranh luận cho việc thay đổi đến các hình thức của Chủ nghĩa thực tế động lực ở mức độ cá nhân có thể được xem như sự phản chiếu những cuộc tranh luận cho việc thay đổi đến các hình thức của Chủ nghĩa thực tế nguyên tắc ở cấp độ xã hội. Adams đề cập đến quan điểm của Sidgwick rằng "Hạnh phúc(chung hay của từng cá nhân) dường như có thể đạt được tốt hơn nếu mức độ mà chúng ta hướng đến một cách có ý thức được giới hạn một cách cẩn thận." Cố gắng ứng dụng những phép tính lợi ích vào mỗi hay từng trường hợp dường như dẫn tới một kết quả không khả thi nhất. Thực hiện nghiêm theo những nguyên tắc đã có ở cấp độ xã hội và khuyến khích những động lực phù hợp ở cấp độ cá nhân thì, vì vậy nó bị tranh cãi, dường như đạt được một kết quả tổng thể tốt hơn thậm chí nếu trong trường hợp cá nhân có những hành động sai khi được đánh giá dựa theo tiêu chuẩn của Chủ nghĩa thực tế hành động.

Adams mô tả học thuyết của ông bằng cách kể một câu chuyện hư cấu về Jack, một người yêu nghệ thuật, viếng thăm thánh đường Chartres. Jack bị lôi cuốn khi thấy, rất rõ ràng, mọi thứ trong thánh đường. Tuy nhiên, cũng có một vài thứ, bản thân chúng, không thu hút anh ấy nhiều. Nếu theo những nguyên tắc của những người theo Chủ nghĩa thực tế hành động, anh ấy lẽ ra nên bỏ mặc chúng. Dành nhiều thời gian trong thánh đường so với kế hoạch Jack dự định ban đầu làm cho Jack bỏ lỡ buổi trưa, buộc phải lái xe nhiều giờ trong đêm để về nhà, điều mà Jack rất ghét, và Jack không thể tìm được chỗ để nghỉ qua đêm. Adams tranh luận rằng Jack lẽ ra chỉ bỏ qua một số điều vô vị trong thánh đường nếu "Jack ít bị cuốn hút trong việc xem mọi thứ trong thánh đường hơn là tối đa hóa lợi ích". Và nó là đúng để giả định rằng nếu sự yêu thích của anh ấy không có sự tôn trọng đó, thì chắc chắn Jack không thể vui khi viếng thăm thánh đường Chartres."

Adams kết luận rằng "hành động đúng, theo tiêu chuẩn của những người theo Chủ nghĩa thực tế hành động, và động lực đúng, theo tiêu chuẩn của những người theo Chủ nghĩa thực tế mềm dẻo, là không thể đi đôi với nhau trong một số trường hợp." Kết luận này bị bác bỏ bởi Fred Feldman khi ông tranh cãi rằng "những tranh cãi từ các kết quả về các vấn đề cần được xem xét của các công thức còn thiếu sót của những nhà tư tưởng theo Chủ nghĩa thực tế; động lực không đóng vai trò quan trọng trong nó...(và)... những tranh cãi tương tự cũng sẽ xuất hiện thạm chí khi Chủ nghĩa thực tế động lực không được xét tới và chỉ áp dụng Chủ nghĩa thực tế hành động." Thay vào đó, Feldman đề xuất một biến thể của Chủ nghĩa thực tế hành động, cái mà không có sự mâu thuẫn với Chủ nghĩa thực tế động lực.

Phê bình

Vì Chủ nghĩa thực tế không phải là một học thuyết đơn lẻ mà có một loạt những học thuyết lien quan đã phát triển trên 200 năm, nên những lời chỉ trích có thể được thực hiện từ nhiều lý do và mục đích khác nhau.

Loại bỏ công lý

Như Rosen đã chỉ ra, tuyên bố rằng những người theo Chủ nghĩa thực tế hành động mà không quan tâm đến việc có những luật là để tạo ra một "kẻ bù nhìn". Tương tự, Hare đề cập rằng "Các bức tranh biếm họa của Chủ nghĩa thực tế hành động là những mô tả duy nhất mà nhiều nhà triết học dường như hiểu rõ." Theo những gì Bentham nói về những điều xấu xa thứ 2(second order evils) thì thật là sai lầm nghiêm trọng khi nói rằng Bentham và những nhà tư tưởng theo Chủ nghĩa thực tế hành động sẵn sàng trừng phạt một người vô tội cho những điều tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, dù cho họ có đồng ý hay không, đây là những điều mà các nhà phê bình Chủ nghĩa thực tế nêu lên gắn liền với học thuyết. Một bài phê bình theo phong cách cổ được viết bởi H. J. McCloskey:

Theo những người thuộc Chủ nghĩa thực tế "vượt mức", McCloskey đề cập đến việc phát triển học thuyết này trở thành Chủ nghĩa thực tế "hành động". Trong khi câu chuyện này có thể được dẫn như một phần của việc chứng minh cho việc chuyển đổi từ Chủ nghĩa thực tế hành động sang Chủ nghĩa thực tế nguyên tắc, McCloskey dự đoán điều này và chỉ ra rằng mỗi nguyên tắc đã được chứng minh tính hữu ích của nó. Thật không chính xác khi nói một nguyên tắc với những ngoại lệ không có nhiều tính hữu ích. Câu chuyện trên đây có thể trả lời rằng viên cảnh sát sẽ không ngụy tạo bằng chứng chống lại người vô tội vì nguyên tắc "không được làm hại người vô tội"; nó cũng có thể trả lời rằng những vấn đề này cần phải được giải quyết, và những cuộc chống đối có thể có những lợi ích về mặt lâu dài bằng cách thu hút sự chú ý và vì vậy giải quyết tình trạnh phân biệt chủng tộc. Tuy nhiên, McCloskey hỏi, thế còn Luật "làm hại một người vô tội khi và chỉ khi làm như vậy là không làm suy yếu bộ máy luật pháp và khi kết quả của việc làm này là có giá trị"?

Trong một bài báo sau đó, McCloskey nói:

Hệ quả được dự đoán trước

Một vài người tranh luận rằng không thể thực hiện những sự tính toán mà Chủ nghĩa thực tế đưa ra vì kết quả vốn không thể biết trước được. Daniel Dennett mô tả điều này như là hiệu ứng "hòn đảo 3 dặm"("Three Mile Island").. Dennett chỉ ra rằng không chỉ không thể nói rằng một giá trị rõ ràng là ngẫu nhiên, mà còn không thể biết được liệu, cuối cùng, sự sắp sụp đổ diễn ra là điều tốt hay xấu. Ông cho rằng nó sẽ là một điều tốt nếu những người điều hành nhà máy được học những bài học về cách ngăn chặn những sự cố nghiêm trọng trong tương lai.

Russell Hardin không đồng tình với quan điểm này. Ông tranh luận rằng có thể phân biệt được những động cơ đạo đức của Chủ nghĩa thực tế(định nghĩa điều đúng đắn là điều tạo ra một kết quả tốt và khuyến khích mọi người thực hiện điều này) với khả năng của chúng ta để ứng dụng một cách hợp lý những nguyên tắc mang tính lý trí trong những điều khác "phụ thuộc vào điều kiện thực tế của các trường hợp và tình trạng tâm lý của những con người đạo đức cụ thể." Tuy nhiên, một mục tiêu tương tự được chú ý vào năm 1970 bởi Thomas Nagel(ông tuyên bố rằng Chủ nghĩa hệ quả(consequentialism) "xem xét những ham muốn, nhu cầu, sự thỏa mãn và sự không thỏa mãn của những con người riêng biệt là khác biệt" Quan điểm này được ủng hộ bởi Iain King, King dùng cái nhìn sâu sắc này để điều chỉnh Chủ nghĩa thực tế, và nó có thể giúp dung hòa triết học Bentham với vấn đề nghĩa vụ và đạo đức.

Triết gia John Taurek cũng tranh luận rằng ý tưởng cộng các hạnh phúc và sự thỏa mãn trên toàn bộ con người là hoàn toàn khó hiểu và tổng số người trong một tình huống là không liên quan về mặt đạo đức. Những quan ngại chủ yếu của Taurek đến từ điều này: Chúng ta không thể giải thích ý nghĩa của việc nói rằng mọi chuyện sẽ tệ hơn gấp 5 lần nếu 5 người chết so với chỉ 1 người chết. "Tôi không thể đưa ra một lời giải thích thỏa đáng về ý nghĩa của những kết luận như vậy," Ông viết(trang 304). Ông tranh luận rằng mỗi người có thể chỉ đánh mất hạnh phúc hay sự thỏa mãn cho một người. Không có chuyện mất mát gấp 5 lần hạnh phúc hay sự thỏa mãn khi có năm người chết: Ai sẽ cảm thấy niềm hạnh phúc hay sự thỏa mãn này? "Sự mất mát bên trong của mỗi người có ảnh hưởng như nhau đối với tôi, chỉ như mất mát đối với riêng người đó. Vì, bởi giả thuyết, Tôi có một sự quan tâm như nhau đối với mỗi người trong hoàn cảnh đó, Tôi sẽ san sẻ nỗi đau cho mỗi người như nhau"(trang 307). Parfit những người khác đã phê bình những bài viết của Taurek, và nó tiếp túc được thảo luận.

Tính toán sự hữu ích là tự tạo nên sự thất bại

Những lời chỉ trích ban đầu, được tuyên bố bởi Mill, cho rằng nếu ta dành thời gian để tính toán phương án hành động tốt nhất thì dường như cơ hội để thực hiện phương án tốt nhất đã trôi qua. Mill trả lời rằng có dư dả thời gian để chúng ta tính toán những kết quả có thể xảy ra:Gần đây, Hardin có cùng quan điểm đó. "Thật là đáng xấu hổ cho một triết gia nếu như họ đã từng xem vấn đề này quá nghiêm túc. Những vấn đề tương tự trong các vấn đề khác được cho là không quan trọng với những trí tuệ vĩ đại. Lord Devlin chú ý rằng, 'nếu một người có lý trí làm việc "theo nghĩa vụ"("work to rule") khi chỉ đọc những điểm mà anh ta có trách nhiệm thực hiện, nền thương mại và hành chính của đất nước sẽ trở nên trì trệ.'"

Những quan điểm này thậm chí dẫn những người theo Chủ nghĩa thực tế hành động tin tưởng vào "Quy tắc ngón tay cái", như Smart đã gọi.

Thậm chí không loại trừ các triết gia của chúng ta,Christian Wolff, có những ý kiến chất phác bình thường nhất từng được đánh giá cao một cách vô cùng tự mãn trong mọi quốc gia và xuyên suốt lịch sử. Nguyên tắc chính của "sự hữu ích" không phải là khám phá của Bentham. Bentham chỉ đơn giản là viết lại nó theo cách kém hấp dẫn của ông ta từ những gì Helvétius và các triết gia Pháp khác đã làm một cách tuyệt vời vào thế kỉ 18. Bản chất của nó không thể được suy luận từ nguyên tắc chính của "sự hữu ích". Ứng dụng điều này vào con người, Bentham, người quy tất cả hành động và phong trào cũng như mối quan hệ.... của con người theo nguyên lý của sự hữu ích, buộc phải giải quyết trước những vấn đề thuộc bản chất tự nhiên của con người và sau đó là tính tình của con người được thay đổi qua các thời kì lịch sử.

Bentham chỉ làm được một phần nhỏ công việc này. Với sự ngây thơ khô khan nhất, ông xem những người bán hàng, đặc biệt những người bán hàng tại Anh, như những người bình thường. Bất cứ những gì là hữu dụng đối với người đàn ông bình thường "bất thường" này, và đối với thế giới của ông, là chắc chắn hữu dụng. Thước đo này, sau đó, được ông áp dụng vào cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Thiên Chúa giáo, ví dụ, là "hữu dụng", "vì nó ngăn cấm trong các điều Luật của nó những lỗi lầm tương tự có trong điều Luật của luật pháp." Phê bình nghệ thuật là "gây hại", vì nó làm rối loạn những con người giá trị trong sự thưởng thức của họ đối với tác phẩm của Martin Tupper, .... Những điều vô giá trị có những điều thú vị, theo phương châm của Bentham, "những dòng viết bừa[không ngày nào không viết]", tạo ra một "núi sách".

Chỉ trích theo chủ nghĩa nhân vị của John Paul II

Đức giáo hoàng John Paul II, theo quan điểm từ chủ nghĩa nhân vị của ông, tranh luận rằng sự nguy hiểm của Chủ nghĩa vị lợi là nó hướng tới việc làm cho con người, cũng như bất kì sự vật nào khác, trở nên hữu dụng. "Chủ nghĩa vị lợi", ông viết, "là một nền văn minh của sản xuất và sử dụng, nền văn minh của đồ vật chứ không phải con người, một nền văn minh mà con người được dùng cùng một cách như bất kì đồ vật nào khác được sử dụng."

Những quan điểm khác

Hạnh phúc trung bình và hạnh phúc tổng thể

Trong tác phẩm "The Methods of Ethics", Henry Sidgwick nói, "Có phải chúng ta đang tìm cách tối đa hóa hạnh phúc trung bình hay hạnh phúc tổng thể?" Gần đây nhất, một quan điểm tương tự đã được nhấn mạnh bởi Smart, người tranh luận rằng tất cả mọi vật là công bằng trong vũ trụ với hai triệu con người hạnh phúc là tốt hơn so với một hành tinh chỉ có một triệu con người hạnh phúc. Jonathan Dancy chối bỏ việc giải thích những điều cơ bản cho rằng Mill cố gắng làm cho "kế hoạch" gắn với việc đánh giá hành động chứ không phải đánh giá con người.

Một cách giải thích khác của Roger Crisp xuất phát từ một định nghĩa của Mill trong tác phẩm "A System of Logic", Mill viết trong tác phẩm rằng "Một kế hoạch tạo ra một kết quả, là một chuyện; kết quả được tạo ra trong những hệ quả của một kế hoạch lại là một chuyện khác; hai điều đó góp phần tạo nên các hành động." Hay Chúng ta có thể nói không? Mà là Chúng ta có thể chịu đựng được không? Sự phân biệt của Mill giữa sự hài lòng cao hơn và thấp hơn có thể hiểu rằng ông tạo cho con người một địa vị cao hơn nhưng trong tác phẩm "The Methods of Ethics", triết gia Henry Sidgwick nói "Chúng ta cần có sự quan tâm đúng mức "ai" được bao hàm trong khái niệm "tất cả", hạnh phúc của họ buộc phải được quan tâm. Chúng ta sẽ mở rộng sự quan tâm của chúng ta đến tất cả các sinh vật sống, những loài cảm nhận được sự đau đớn và thỏa mãn, bị ảnh hưởng bởi cách hành xử của chúng ta? Hay chúng ta chỉ gói gọn sự quan tâm đó trong loài người? Quan điểm đầu tiên được ủng hộ bởi Bentham và Mill, và (tôi tin rằng) tất cả trường phái Chủ nghĩa thực tế đều ủng hộ như vậy: và thật sự rõ ràng dựa vào tính chung của vũ trụ cái mà tạo nên những nguyên tắc đầu tiên của Chủ nghĩa thực tế... thì thật vô lý và bất công để mà loại bỏ cách nghĩ đó, như chúng ta đã biết về nó, sự hài lòng của tất cả các sinh vật sống."

Trong một tác phẩm viết vào năm 1990 với nhan đề "Animal Liberation", Peter Singer nói rằng ông không còn ăn thịt hào và thịt trai, vì mặc dù chúng ta nghĩ rằng các sinh vật đó không cảm nhận được sự đau đớn, nhưng chúng ta không thể biết chắc điều đó, và không quá khó để không ăn chúng(và việc lựa chọn phương pháp tốt hơn này là một nguyên tắc quan trọng của Chủ nghĩa thực tế). Quan điểm này vẫn mâu thuẫn với Thuyết môi trường(deep ecology), Thuyết này tuyên bố rằng giá trị nội tại gắn liền với tất cả hình thức của cuộc sống và thiên nhiên, bất kể nó là sinh vật sống hay không. Theo Chủ nghĩa thực tế, hình thức của cuộc sống không thể trải nghiệm bất cứ điều gì như là sự thỏa mãn hay là sự đau đớn mà các giá trị đạo đức chối bỏ, vì chúng ta không thể tăng cường hạnh phúc hay giảm những nỗi đau của một vật vô tri vô giác.

Singer viết: "Khả năng chịu đựng đau đớn và sự hưởng thụ vật chất là yếu tố tiên quyết cho lòng ham muốn, một điều kiện cần được thỏa mãn trước khi chúng ta có thể nói về lòng ham muốn trong bất kì ý nghĩa nào. Sẽ là vô nghĩa nếu nói một hòn đá bị đá dọc theo một con đường bởi một cậu bé là không có long ham muốn. Một hòn đá không có ham muốn vì nó không biết đau đớn. Chúng ta không thể làm gì để thay đổi "hạnh phúc" của nó. Một con chuột, trái lại, chắc chắn có một ham muốn là không bị hành hạ, vì nó sẽ đau đớn nếu nó bị như vậy. Nếu một sinh vật sống chịu đựng đau đớn, thì không có một chứng minh mang tính đạo đức nào có thể từ chối việc quan tâm đến nỗi đau đó. Bất kể bản chất của vật chịu đau đớn là gì, nguyên tắc của sự công bằng yêu cầu những nỗi đau đớn nên được đánh giá ngang nhau-trong một chừng mực so sánh đơn giản giữa các loài với nhau. Nếu một vật không cảm nhận được đau đớn hay không biết hạnh phúc, nó sẽ không được xem xét trong trường hợp này."

Vì vậy, giá trị đạo đức của các sinh vật đơn bào, cũng như một vài sinh vật đa bào, và thực thể tự nhiên như một con sông, chỉ là những lợi ích đối với những sinh vật sống cao cấp. Tương tự, Chủ nghĩa thực tế không tạo ra những giá trị quan trọng trực tiếp vào "sự đa dạng sinh học"("biodiversity"), mặc dù những lợi ích mà sự "sự đa dạng sinh học" mang lại cho những sinh vật sống cao cấp có thể mang ý nghĩa rằng, đối với Chủ nghĩa thực tế, "đa dạng sinh học" nên được bảo tồn. Trong tiểu luận của John Stuart Mill có nhan đề "On Nature" ông tranh luận rằng hạnh phúc của những động vật hoang đã được xem xét khi đưa ra những phán quyết của người theo Chủ nghĩa thực tế. Tyler Cowen tranh luận rằng, nếu mỗi con vật là những vật mang lại lợi ích, vì vậy chúng ta nên xem xét giới hạn trong việc săn mồi của động vật ăn thịt với con mồi của chúng: "Một cách tối thiểu, chúng ta nên giới hạn mức độ thịt cung cấp hiện tại cho các loài ăn thịt."

Sự nghèo đói

Một bài báo trong một tạp chí Mỹ về kinh tế đã nêu lên vấn đề về đạo đức của Chủ nghĩa vị lợi trong vấn đề phân phối lại của cải. Tạp chí tuyên bố rằng việc đánh thuế người giàu là cách tốt nhất để gửi số tiền xứng đáng mà người giàu có thể nhận. Điều này nói rằng tiền tạo ra lợi ích cho hầu hết mọi người bằng cách đóp góp cho các hoạt động của Chính phủ. Nhiều triết gia của Chủ nghĩa vị lợi, bao gồm Peter Singer và Toby Ord, tranh luận rằng những cư dân cụ thể của một quốc gia phát triển có nghĩa vụ giúp đỡ sự nghèo đói trên khắp thế giới, ví dụ bằng cách thường xuyên đóng góp tiền cho quỹ từ thiện.

Peter Singer, ví dụ, tranh luận rằng việc đóng góp tiền của mình cho hoạt động từ thiện có thể giúp cứu sống hay chữa trị bênh tật cho những người nghèo, điều này là một cách sử dụng tiền tốt hơn khi nó giúp cho những người khốn khó có cuộc sống hạnh phúc hơn so với việc số tiền đó mang lại cho những người khá giả. Tuy nhiên, Singer không chỉ nói rằng một người nên đóng góp một số tiền đáng kể của mình vào hoạt động từ thiện, mà còn nói rằng nên đóng góp cho những tổ chức từ thiện đúng nghĩa để mang lại nhiều điều tốt đẹp nhất với chất lượng cao nhất, phù hợp với suy nghĩ của những người theo Chủ nghĩa vị lợi. Ý kiến của Singer đã góp phần hình thành nên những nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa vị tha hiệu quả(effective altruist) thời hiện đại.

👁️ 6 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chủ nghĩa vị lợi**, hay **chủ nghĩa công lợi** còn gọi là **thuyết duy lợi** hay **thuyết công lợi** (tiếng Anh: _Utilitarianism_) là một triết lý đạo đức, một trường phái triết học xã hội
**Chủ nghĩa tự do cổ điển** là một ý thức hệ chính trị và là một nhánh của chủ nghĩa tự do vận động cho tự do dân sự và tự do chính trị với
Trao của [[bố thí cho người nghèo được coi là hành động vị tha ở nhiều nền văn hóa và tôn giáo.]] **Vị tha** hay **Chủ nghĩa Vị tha** là nguyên lý hay hành động
:_Bài này nói về chủ nghĩa cộng sản như một hình thái xã hội và như một phong trào chính trị. Xin xem bài hệ thống xã hội chủ nghĩa, đảng cộng sản và chủ
**Chủ nghĩa cá nhân** hay còn gọi là **cá nhân chủ nghĩa**, **chủ nghĩa cá thể** là một thuật ngữ được sử dụng để mô tả một cách nhìn nhận trên phương diện xã hội,
**Chủ nghĩa cộng sản vô trị**, **chủ nghĩa cộng sản vô chính phủ** () hay **chủ nghĩa cộng sản tự do** là một học thuyết của chủ nghĩa vô trị, chủ trương thủ tiêu nhà
nhỏ|Chiếc [[mũ cối (ở đây là mũ thời Đệ nhị Đế chế Pháp) là một hình tượng đại diện cho chủ nghĩa thực dân.]] **Chủ nghĩa thực dân** (Tiếng Anh: _colonialism_) là hình thái xã
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa România** (), trước ngày 21 tháng 8 năm 1965 được gọi là **Cộng hòa Nhân dân România** ( (1947–1954, 1963–1965) hoặc (1954–1963)), là giai đoạn trong lịch sử România
**Chủ nghĩa xã hội nhà nước** là một cách gọi cho tất cả các tư tưởng kinh tế và chính trị ủng hộ việc quốc hữu hóa phương tiện sản xuất vì bất kì mục
**Chủ nghĩa Đại Hán** (chữ Hán: **大漢族主義** _Đại Hán tộc chủ nghĩa /_ **漢沙文主義** _Hán sô vanh chủ nghĩa_ tại Trung Quốc đại lục và Đài Loan được gọi là **漢本位** _Hán bản vị_) là
**Anh hùng Lao động Xã hội chủ nghĩa** () là danh hiệu nhà nước Liên Xô, đồng thời là danh hiệu cao nhất cho lĩnh vực lao động từ năm 1938 đến năm 1991. ##
**Chủ nghĩa khoái lạc** (hedonism) là hệ thống triết lý đề cao việc mưu cầu lạc thú và tránh né khổ đau như là mục đích chủ yếu trong cuộc sống. Theo thuyết này thì
**Chủ nghĩa tư bản** (Chữ Hán: 主義資本; tiếng Anh: _capitalism_) là một hệ thống kinh tế dựa trên quyền sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất và hoạt động sản xuất vì
**Chủ nghĩa tự do** là một hệ tư tưởng, quan điểm triết học, và truyền thống chính trị dựa trên các giá trị về tự do và bình đẳng. Chủ nghĩa tự do có nguồn
right|Biểu tình của những người theo chủ nghĩa xã hội vào [[Ngày Quốc tế Lao động 1912 tại Union Square ở Thành phố New York]] **Chủ nghĩa xã hội** (; ; Hán: 社會主義; Nôm: 主義社會)
nhỏ|phải|Triết gia [[Friedrich Engels|F. Engels với các tác phẩm của mình đã đặt nền tảng cho Lý luận của Chủ nghĩa Marx – Lenin về nhà nước.]] **Học thuyết về Nhà nước của Chủ nghĩa
nhỏ|[[Ze'ev Jabotinsky]] **Chủ nghĩa phục quốc Do Thái xét lại** (tiếng Hebrew: ציונות רוויזיוניסטית) hay **Chủ nghĩa Zion xét lại** là một phong trào trong Chủ nghĩa phục quốc Do Thái do Ze'ev Jabotinsky khởi
**Chủ nghĩa Marx** hay **Mác-xít** (phiên âm từ Marxist) là hệ thống học thuyết triết học, lịch sử và kinh tế chính trị dựa trên các tác phẩm của Karl Marx (1818 - 1883) và
**Chủ nghĩa tự do hiện đại Hoa Kỳ** là phiên bản chủ đạo của chủ nghĩa tự do tại Hoa Kỳ. Nó kết hợp ý tưởng của tự do dân sự (_civil liberty_) và bình
**Chủ nghĩa vô thần**, **thuyết vô thần** hay **vô thần luận**, theo nghĩa rộng nhất, là sự "thiếu vắng" niềm tin vào sự tồn tại của thần linh. Theo nghĩa hẹp hơn, chủ nghĩa vô
thumb|right|Thuận chiều kim đồng hồ từ góc trên bên trái: [[Søren Kierkegaard, Fyodor Dostoevsky, Jean-Paul Sartre, Friedrich Nietzsche.]] **Chủ nghĩa hiện sinh** hay **thuyết hiện sinh** là luồng tư tưởng triết học của một nhóm
**Chủ nghĩa bảo thủ** (tiếng Pháp: _conservatisme_, tiếng Anh: _conservatism_, gốc từ tiếng Latinh _conservo_ — giữ gìn) là các triết lý chính trị và xã hội thúc đẩy các thiết chế xã hội truyền
**Chủ nghĩa xã hội thị trường** là một kiểu hệ thống kinh tế trong đó nền kinh tế thị trường được điều khiển bởi một bộ máy kế hoạch hóa tập trung nhằm nâng cao
**Chủ nghĩa tự do cá nhân** hay **chủ nghĩa tự do ý chí** (tiếng Anh: _libertarianism_, từ tiếng Latinh: _liber_, tự do) là học thuyết triết học chính trị ủng hộ tự do như là
**Chủ nghĩa duy tâm**, còn gọi là **thuyết duy tâm** hay **duy tâm luận** (), là trường phái triết học khẳng định rằng mọi thứ đều tồn tại bên trong tinh thần và thuộc về
**Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa** ( - **NSDAP**), thường được gọi là **Đảng Quốc Xã** trong tiếng Việt, là đảng cầm quyền Đức trong thời kỳ Đức Quốc Xã. Lãnh
Các quốc gia trên thế giới có đặt căn cứ quân sự của Hoa Kỳ. **Chủ nghĩa đế quốc Mỹ** () là một thuật ngữ nói về sự bành trướng chính trị, kinh tế, quân
Các đế quốc thực dân trên thế giới vào năm 1898, trước khi nổ ra [[Chiến tranh Tây Ban Nha–Mỹ và Chiến tranh Boer]] Các đế quốc thực dân trên thế giới vào năm 1800
nhỏ|Áp phích tuyên truyền chống cộng sản của Đức năm 1937. **Chủ nghĩa chống Cộng sản** là tập hợp các lập trường và quan điểm chống lại chủ nghĩa Cộng sản. Chủ nghĩa chống Cộng
**Chủ nghĩa kinh nghiệm** hay **chủ nghĩa duy nghiệm** (tiếng Anh: **Empiricism**) là một khuynh hướng lý thuyết về tri thức triết học với đặc điểm nhấn mạnh vai trò của trải nghiệm. Trải nghiệm
**Chủ nghĩa hoài nghi triết học** (tiếng Anh: _philosophical skepticism_) là trường phái tư tưởng triết học xem xét một cách hệ thống và với thái độ phê phán về quan niệm rằng tri thức
**Chủ nghĩa dân túy** (, Hán-Việt: _dân túy chủ nghĩa_; ) đề cập đến một loạt các lập trường chính trị nhấn mạnh ý tưởng về "nhân dân" và thường đặt nhóm này chống lại
thumb|[[Cecil Rhodes và dự án đường sắt Cape-Cairo. Rhodes thích "tô bản đồ nước Anh màu đỏ" và tuyên bố: "tất cả những ngôi sao này... những thế giới bao la vẫn còn ngoài tầm
**Chủ nghĩa cơ yếu** hay **chủ nghĩa toàn thống** (tiếng Anh: _fundamentalism_) đề cập đến niềm tin nghiêm ngặt, trung thành tuyệt đối với những nguyên tắc cơ bản, trong thực tế thường nói đến
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Flag_of_the_Republican_People's_Party_(Turkey).svg|nhỏ|261x261px|Lục Tiễn **Chủ nghĩa Kemal** (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: _Kemalizm_), **chủ nghĩa Atatürk** (_Atatürkçülük, Atatürkçü düşünce_) hay **Lục Tiễn** (_Altı Ok_) là tư tưởng kiến quốc của Nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, theo Mustafa
**Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam** (gọi tắt: **Chủ tịch nước**) là nguyên thủ quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là người đứng đầu
thumb|right|[[Benito Mussolini (trái) và Adolf Hitler (phải), hai thủ lĩnh phát xít.]] **Chủ nghĩa phát xít** là một hệ tư tưởng chính trị và phong trào chính trị cực hữu đặc trưng bởi sức mạnh
**Phê phán Chủ nghĩa Xã hội** (bao gồm chủ nghĩa chống cộng và là một phần của chống cánh tả) đề cập đến sự phê phán của các mô hình xã hội chủ nghĩa về
**Chủ nghĩa dân tộc kinh tế**, còn được gọi là **chủ nghĩa yêu nước kinh tế** và **chủ nghĩa dân túy kinh tế**, là một hệ tư tưởng ủng hộ chủ nghĩa can thiệp của
thế=|nhỏ| [[Tuyên truyền chống cộng của Hoa Kỳ những năm 1950, đặc biệt đề cập đến ngành công nghiệp giải trí ]] **Chủ nghĩa McCarthy** (tiếng Anh: **McCarthyism**) là thuật ngữ nói về việc cáo
**Chủ nghĩa vô trị** hay **chủ nghĩa vô chính phủ** là một trường phái triết học và phong trào chính trị chủ trương hoài nghi bất cứ sự hợp thức hóa nào về chính quyền,
phải|nhỏ|[[Kádár János, người đề xướng nên chủ nghĩa cộng sản Gulyás.]] **Chủ nghĩa cộng sản Gulyás** (tiếng Hungary: _gulyáskommunizmus_) hay **chủ nghĩa Kádár** (đặt theo tên của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Kádár János,
_Phần này phê phán Chủ nghĩa Marx, một nhánh của Chủ nghĩa Xã hội. Về phê phán Chủ nghĩa xã hội nói chung, có thể xem Phê phán Chủ nghĩa Xã hội._ **Phê phán chủ
**Chủ nghĩa quân quốc** hay còn gọi là **Chủ nghĩa quân phiệt** là tư tưởng của một chính phủ rằng nhà nước nên duy trì khả năng quân sự mạnh mẽ và sử dụng để
**Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Croatia** (tiếng Serbia-Croatia: Socijalistička Republika Hrvatska / Социјалистичка Република Хрватска), thường viết tắt là **SR Croatia** hoặc chỉ gọi là **Croatia**, là một nước cộng hoà cấu thành của
**Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư**, gọi tắt là **CHLBXHCN Nam Tư** là nhà nước Nam Tư được thành lập sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai và tồn tại
**Chủ nghĩa dân tộc** (tiếng Anh: _nationalism_) là một quan niệm và ý thức hệ chính trị cho rằng dân tộc nên đồng nhất với nhà nước. Khái niệm này hay được cho là ra
nhỏ|Josef Stalin, ca. 1942 **Chủ nghĩa Stalin** là từ được dùng khi nói tới lý thuyết và thực hành của Stalin tạo ra trong thời kỳ lãnh đạo của Josef Stalin (1927–1953) ở Liên Xô
thumb|Lãnh tụ Xô Viết [[Joseph Stalin và ngoại trưởng Đức Joachim von Ribbentrop tại điện Kremli vào tháng 8 năm 1939, dịp ký kết hiệp ước Xô-Đức]] Một số các tác giả đã so sánh
**Chủ nghĩa bảo thủ một quốc gia** (tiếng Anh: _One-nation conservatism_) hay **Chính sách Tory** (tiếng Anh: _Tory democracy_) là một kiểu chế độ kiểu 'gia trưởng' của chính trị bảo thủ nước Anh, hay