✨Cá hồi di cư

Cá hồi di cư

nhỏ|phải|Một con cá hồi đang vượt thác nhỏ|phải|Cá hồi vượt thác Cá hồi có đặc trưng là loài cá ngược sông để đẻ, chúng sinh ra tại khu vực nước ngọt, di cư ra biển, sau đó quay trở lại vùng nước ngọt để sinh sản. Tuy nhiên, có nhiều con thuộc nhiều loài sống cả đời tại vùng nước ngọt. Hầu hết cá hồi tuân theo mô hình cá di cư bơi ngược dòng sông để sinh sản, giai đoạn này chúng trải qua thời kỳ ăn nhiều nhất và lớn lên trong vùng nước mặn, tuy nhiên, khi trưởng thành chúng trở lại để đẻ trứng trong các dòng suối nước ngọt bản địa để đẻ trứng và cá con phát triển qua nhiều giai đoạn khác biệt.

Cá hồi di cư là thời điểm cá hồi, đã di cư từ biển, bơi đến thượng nguồn con sông nơi chúng đẻ trứng trên sỏi đá. Sau khi đẻ, tất cả cá hồi Thái Bình Dương và Đại Tây Dương đều chết và chu kỳ sống của cá hồi bắt đầu một lần nữa. Sự di cư hàng năm có thể là một sự kiện lớn đối với gấu xám Bắc Mỹ, đại bàng đầu hói, sói xám vì chúng sẽ canh bắt cá hồi để tận hưởng thịt cá hồi đầy bổ dưỡng.

Tổng quan

Truyền thống dân gian cho rằng loài cá này trở về đúng nơi chúng được sinh ra để đẻ trứng, chính vì vậy trong tiếng Anh, thuật ngữ salmon xuất xứ từ chữ La tinh salmo, và chữ này lại có gốc từ salire, có nghĩa "nhảy". Những cuộc nghiên cứu đã cho thấy điều này là chính xác, và hành động quay lại nơi ra đời này đã được thể hiện phụ thuộc vào ký ức khứu giác.

Một số loài

Cá hồi Chinook là một loài cá di cư sống phần lớn thời gian ở biển, nhưng khi trưởng thành lại ngược dòng về sinh sản trong vùng nước ngọt, thuộc họ Salmonidae. Các chủng loại này được xác định dựa theo thời gian cá hồi trưởng thành bơi vào vùng nước ngọt để sinh sản. Cá hồi Chinook có thể sống từ 1 đến 5 năm trong đại dương trước khi trở về những con sông quê hương của chúng để đẻ trứng. Sông Yukon là con đường di cư nước ngọt dài nhất của bất cứ cá hồi nào, dài trên 3.000 km từ cửa sông ở biển Bering đến nơi đẻ trứng trên thượng nguồn Whitehorse, Yukon. Một cầu thang cá đã được xây dựng quanh đập thủy điện hồ Schwatka tại Whitehorse để cho cá hồi Chinook dễ dàng đi qua đập.

Trong đại dương, cá hồi hồng có màu bạc sáng. Sau khi trở về dòng suối nơi sinh ra của chúng, màu sắc thay đổi sang màu xám nhạt ở mặt sau với bụng màu trắng hơi vàng. Cá hồi đỏ thì đẻ trứng chủ yếu ở dòng suối có lưu vực sông bao gồm một hồ. Con cá non trải qua đến ba năm trong các hồ nước ngọt trước khi di cư ra đại dương. Một số ở lại trong hồ và không di chuyển. Cá di cư trải qua 1-4 năm trong nước mặn, và do đó là 4-6 năm khi chúng quay lại để đẻ trứng giữa tháng Bảy và tháng Tám. Việc chúng đính hướng đến được dòng sông nơi chúng sinh ra được cho là được thực hiện bằng cách sử dụng mùi đặc trưng của dòng suối, và có thể mặt trời. Một số con trải qua 4 năm trong các hồ nước ngọt trước khi di cư.

Cá hồi nâu, cá hồi biển cho thấy sinh sản bơi ngược dòng sông suối, di cư đến các đại dương trong phần lớn cuộc đời của nó và trở về nước ngọt chỉ để đẻ trứng. Loài cá hồi này di cư từ hồ ra sông, suối để đẻ trứng, mặc dù có một số bằng chứng của đàn cá đẻ trứng trên bờ biển có gió quét S. trutta morpha fario tạo thành các quần thể sinh sống cố định một nơi, thường là trong các dòng suối trên núi cao nhưng đôi khi ở các con sông lớn hơn. Có bằng chứng rằng các cá hồi bơi ngược sông suối sinh đẻ và loài không bơi ngược để sinh đẻ cùng tồn tại trong cùng một dòng sông có thể được giống hệt về mặt di truyền.

Cá hồi trắng hồ là loại cá thịt trắng đẻ trứng từ tháng Chín đến tháng giêng trong nước có 2-4 mét chiều sâu vào ban đêm. Ở tây bắc Canada, một lượng lớn cá hồi di cư đến đồng bằng sông Athabasca vào cuối mùa hè và di chuyển ngược dòng sông Athabasca. Đợt di chuyển dài nhất từng được ghi nhận của một con cá thịt trắng được dán nhãn đánh dấu là 388 km (241 dặm), từ Fort McMurray đến bờ biển phía bắc của hồ Athabasca ở Alberta, Canada.

Cá hồi vân là một loại cá hồi cầu vồng bơi ngược sông để sinh sản, thường trở về vùng nước ngọt để đẻ trứng sau hai hoặc ba năm sinh sống ở biển; cá hồi cầu vồng và cá hồi đầu thép là loài tương tự. Loài cá này được gọi là salmon-trout (loài cá giống như cá hương). Nhiều loài cá hồi trong Họ Cá hồi , một số bơi ngược sông để sinh sản như cá hồi di cư, còn một số chỉ sống ở nước ngọt.

Cá hồi đỏ bơi ngược sông để sinh sản, sau đó lại được tìm thấy ở bắc Thái Bình Dương và các con sông quanh đó. Cá con mới ra đời sẽ sống trong môi trường nước ngọt đến lúc đủ khả năng để di cư và sinh sống ở đại dương, nơi cách xa vị trí sinh sản tới 1.600 km. Chúng di cư trong khoảng 1-4 năm và sống ở môi trường nước mặn. Thời gian này, thức ăn chủ yếu của chúng là các sinh vật phù du. Sau đó, đàn cá lại quay về đẻ trứng ở nơi đã được sinh ra.

Cá hồi đỏ có thể định hướng vị trí cũ bằng cách sử dụng mùi đặc trưng của dòng sông, cũng có thể nhờ vào mặt trời. Mỗi con cá đều nhớ mùi của dòng sông nơi nó sinh ra. Khi di chuyển từ đại dương trở về con sông sinh sản, con cá sẽ tìm thấy đường của nó nhờ khả năng nhớ mùi này. Sau 4 năm, hàng triệu con cá hồi đỏ trở về sông Adams ở Canada để sinh sản và bắt đầu một vòng tuần hoàn mới. Khi về môi trường nước ngọt ở sông Adams, thân cá chuyển dần sang màu đỏ, đầu cá lại có màu xanh lục. Trong điều kiện nước chảy xiết và không có thức ăn, cá hồi đỏ sau khi đẻ trứng đã chết vì kiệt sức.

Vòng đời

nhỏ|Vòng đời của cá hồi Thái Bình Dương

Trứng cá hồi được đẻ tại những dòng suối nước ngọt thông thường ở nơi có độ cao lớn. Trứng phát triển thành cá bột hay bọc trứng (sac fry). Cá mới nở nhanh chóng phát triển thành cá con với những dải ngụy trang dọc. Cá con ở lại dòng suối quê hương trong sáu tháng tới ba năm trước khi trở thành cá non, được phân biệt bởi màu sáng bạc với các vảy có thể dễ dàng bóc. Ước tính chỉ 10% trứng cá hồi sống sót tới giai đoạn này. Tính chất hóa học cơ thể của cá con thay đổi, cho phép chúng sống trong nước mặn. Cá hồi con dành một phần thời gian di cư để sống ở vùng nước lợ, tính chất hóa học cơ thể của chúng trở nên quen thuộc với điều kiện thẩm thấu tại đại dương.

Cá hồi dành khoảng một tới năm năm (tùy theo loài) ở biển khơi nơi chúng dần trưởng thành về giới tính. Cá hồi trưởng thành sau đó đa số quay lại dòng suối quê hương để đẻ trứng. Tại Alaska, sự trao đổi chéo với dòng suối khác cho phép cá hồi tới sinh sống tại những dòng suối mới, như những con cá xuất hiện khi một sông băng rút lui. Phương pháp chính xác cá hồi dùng để định hướng vẫn chưa được xác định, dù khứu giác tốt của chúng có liên quan. Cá hồi Đại Tây Dương dành từ một tới bốn năm ở biển. (Khi một con cá quay về sau chỉ một năm sống ở biển được gọi là grilse ở Canada, Anh và Ireland.)

Sinh sản

Trước khi đẻ trứng, tùy thuộc theo loài, cá hồi trải qua sự thay đổi. Chúng có thể phát triển một cái bướu, mọc răng nanh, phát triển một bướu gù (một sự uốn cong của hàm ở cá hồi đực). Tất cả sẽ chuyển từ màu xanh bạc của cá nước ngọt ra sống ở biển sang một màu tối hơn. Cá hồi có thể thực hiện những chuyến đi đáng kinh ngạc, thỉnh thoảng di chuyển hàng trăm dặm ngược dòng nước chảy nhanh và mạnh để đẻ trứng. Ví dụ, cá hồi Chinook và sockeye từ miền trung Idaho di chuyển và lên cao xấp xỉ từ Thái Bình Dương khi chúng quay về để đẻ trứng. Sức khỏe của chúng kém đi khi chúng càng sống lâu trong nước ngọt, và càng kém nữa sau khi chúng đẻ trứng, khi chúng được gọi là kelt (cá hồi sau khi đẻ). Ở mọi loài cá hồi Thái Bình Dương, các cá nhân trưởng thành chết trong vòng vài ngày hay vài tuần sau khi đẻ trứng, một đặc điểm được gọi là semelparity. Khoảng 2% tới 4% cá hồi Đại Tây Dương cái sống sót để đẻ trứng lần nữa. Tuy nhiên, ở những loài cá hồi có thể đẻ trứng hơn một lần này (iteroparity), tỷ lệ chết sau khi đẻ khá cao (có lẽ lên tới 40 tới 50%).

Để đẻ bọc trứng, cá hồi cái dùng đuôi (vây đuôi), để tạo một vùng áp suất thấp, khiến sỏi trôi xuôi dòng, tạo một hố lõm nông, được gọi là một redd. Redd có thể thỉnh thoảng chứa 5,000 trứng rộng . Trứng thường có màu cam tới đỏ. Một hay nhiều con đực bơi cạnh con cái, phun tinh trùng, hay milt, lên trứng. Sau đó con cái đẩy sỏi phía đầu dòng phủ trứng trước khi bơi đi tạo một redd khác. Con cái sẽ làm thậm chí tới bảy redd trước khi hết trứng. Cơ thể cá hồi đại diện cho sự chuyển tiếp các chất dinh dưỡng từ biển, giàu nitơ, sulfur, carbon và phosphor, về hệ sinh thái rừng.

Gấu xám Bắc Mỹ hoạt động như những kỹ sư sinh thái, bắt cá hồi và mang chúng tới các vùng cây lân cận. Tại đó chúng thải nước tiểu và phân giàu dinh dưỡng và xác bị ăn dở. Đã có ước tính rằng những con gấu để lại tới nửa số cá hồi chúng bắt được trên nền rừng với mật độ có thể lên đến 4,000 kilograms trên 1 hectare, cung cấp tới 24% tổng lượng nitơ có được cho các khu rừng ven sông. Những cây vân sam lên tới từ một dòng suối nơi gấu xám Bắc Mỹ bắt cá hồi đã được phát hiện có chứa nitơ có nguồn gốc từ cá hồi bị bắt.

Chó sói ở miền Tây Canada lại thích bắt cá hồi hơn là săn bắt hươu hay các động vật khác. Hươu là thức ăn chính của loài sói vào mùa xuân và hè. Tuy nhiên, đến mùa thu, thời điểm cá hồi ở Thái Bình Dương đổ về các con sông trong vùng sinh sản thì họ nhà sói thích đánh bắt cá. việc lựa chọn con mồi là cá hồi do an toàn. Sói thường bị thương nặng, có thể dẫn đến bỏ mạng trong khi săn hươu. Nhưng việc bắt cá hồi mang lại cho sói nhiều lợi ích như an toàn, dễ bắt, ít tốn thời gian như khi theo dõi hươu trong rừng. Ngoài ra, so với thịt hươu, thịt cá hồi giàu chất dinh dưỡng hơn, đặc biệt là chất béo và năng lượng.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|phải|Một con cá hồi đang vượt thác nhỏ|phải|Cá hồi vượt thác **Cá hồi có đặc trưng là loài cá ngược sông để đẻ**, chúng sinh ra tại khu vực nước ngọt, di cư ra biển,
nhỏ|phải|Sóng cá mòi được hình thành bằng cánh di chuyển cạnh nhau, nhịp nhàng như đang khiêu vũ và quấn lấy nhau (Shoaling and schooling) để tạo thành khối cầu cá (bait balls) **Cá mòi
**Cá hồi đỏ** (danh pháp khoa học: _Oncorhynchus nerka_) là một loài cá hồi di cư sống ở miền bắc Thái Bình Dương và sông ngòi đổ vào đây. Đây là một loài cá hồi
**Cá hồi trắng hồ** (danh pháp hai phần: **_Coregonus clupeaformis_**) là một loài cá thuộc chi Cá hồi trắng trong họ Cá hồi. Loài này được tìm thấy gần như khắp Canada và một số
Nhiều loại [[cá hồi sống phần nhiều thời gian ngoài biển nhưng lại sinh sản trong vùng nước ngọt. Chúng di cư những đoạn đường xa để lên các con sông hay suối để sinh
Khoảng một triệu người dân miền Bắc (khoảng 800 ngàn trong đó là người Công giáo) di cư đến miền Nam Việt Nam trong những năm 1954–1955 theo những chuyến tàu do Pháp và Mỹ
**Cá hồi** là tên chung cho nhiều loài cá thuộc họ Salmonidae. Nhiều loại cá khác cùng họ được gọi là trout (cá hồi); sự khác biệt thường được cho là cá hồi salmon di
**Những người di cư môi trường** là những người bị buộc phải rời khỏi vùng họ đang sinh sống do những thay đổi đột ngột hoặc lâu dài đối với môi trường tại địa phương
**Chính sách di cư của Ba Lan** - chính sách được hiểu là chiến lược kiểm soát quá trình di cư nhằm đạt được các mục tiêu và lợi ích được đặt ra của nhà
**Cá hồi Chinook** (danh pháp hai phần: **_Oncorhynchus tshawytscha_**) là một loài cá di cư sống phần lớn thời gian ở biển, nhưng ngược dòng về sinh sản trong vùng nước ngọt, thuộc họ Salmonidae.
thumb|Bản đồ các dòng di cư sớm thời tiền sử theo [[DNA ty thể. Các con số thể hiện là Ka BP.]] **Các dòng di cư sớm thời tiền sử** bắt đầu khi Người đứng
nhỏ|phải|Một con cá hồi đang bị bệnh nhọt **Bệnh tật ở cá hồi** là các bệnh tật và ký sinh diễn ra trên các loài cá hồi trong họ Salmonidae. Cá hồi là loài cá
**AquAdvantage** là một giống cá hồi do công ty AquaBounty tại Massachusetts sản xuất, là giống cá hồi Đại Tây Dương có mang hormone tăng trưởng từ cá hồi Chinook và cấy vùng gien khởi
**Cá hồi nâu** (_Salmo trutta morpha fario_ và _S. trutta morpha lacustris_) và **cá hồi biển** (_S. trutta morpha trutta_) là cá hồi thuộc một loài. Chúng được phân biệt chủ yếu là do thực
**Cá hồi trắng Omul** hay **cá hồi trắng Baikal** (danh pháp hai phần: **_Coregonus migratorius_**), là một loài cá hồi trắng, chỉ có tại khu vực hồ Baikal ở Siberi, Nga cũng như một số
phải|nhỏ|_Một người tị nạn Ba Lan_, tranh khắc họa ở thế kỷ 19 phải|nhỏ|_Người tị nạn Ba Lan ở Bỉ_, tranh khắc họa ở thế kỷ 19 **Cuộc đại di cư** (), là một trong
Giai đoạn di cư từ thế kỷ 2 tới thế kỷ 5 **Thời kỳ Di cư**, cũng được gọi là **sự xâm lăng của người man rợ** (tiếng Đức: **Völkerwanderung** 'sự di cư của các
**Chi Cá hồi trắng** (danh pháp khoa học: **_Coregonus_**), là một chi cá trong họ Cá hồi (_Salmonidae_). Loài điển hình là cá hồi trắng (_C. lavaretus_). Tên gọi chung và phổ biến của các
**Cá hồi hồng** hay còn gọi là **cá hồi lưng gù** (danh pháp hai phần: _Oncorhynchus gorbuscha_ từ tên tiếng Nga của loài này _gorbuša, горбуша_) là một loài cá hồi trong họ cá hồi.
**Cá hồi Đại Tây Dương** (danh pháp khoa học: **_Salmo salar_**) là một loài cá trong các họ Cá hồi, được tìm thấy ở Bắc Đại Tây Dương Dương và ở các con sông chảy
**Cá hồi trắng Bering**, (danh pháp hai phần: **_Coregonus laurettae_**) là một loài cá thuộc chi Cá hồi trắng trong họ Cá hồi. Nó sinh sống ở Alaska và một phần của Nga. Nó thường
nhỏ|phải|Một ông bác da trắng, có râu quai nón, mũi cao, mắt sâu, mắt hai mí là đặc trưng của người da trắng lớn tuổi **Cuộc di cư Da Trắng** tiếng Anh là White flight
**Cá hồi Úc** (danh pháp khoa học: **_Arripis_**) là một chi cá thuộc họ Cá hồi Úc (**Arripidae**), theo truyền thống xếp trong bộ Cá vược (Perciformes), nhưng gần đây được phân loại lại như
**Cá voi vây** (_Balaenoptera physalus_), còn gọi là **cá voi lưng xám**, là một loài động vật có vú sống ở biển thuộc phân bộ cá voi tấm sừng hàm. Chúng là loài cá voi
thumb|So sánh tuổi dân số giữa [[quận Pocahontas, Iowa và quận Johnson, Iowa thành thị, minh họa sự di dân của thanh niên (màu đỏ) đến các trung tâm đô thị ở Iowa]] **Di dân
**Cá mập trắng lớn** (danh pháp khoa học: **_Carcharodon carcharias_**), còn được biết đến với các tên gọi khác như **mũi kim trắng**, **cái chết trắng**, **cá mập trắng**, là một loài cá mập lớn
**Cá voi xanh** (_Balaenoptera musculus),_ còn gọi là **cá ông** là một loài cá voi thuộc về phân bộ Mysticeti (cá voi tấm sừng hàm). Dài và nặng hay thậm chí hơn nữa, nó là
**Tổ chức Di trú quốc tế** là một tổ chức liên chính phủ được thành lập năm 1951 với tư cách là Ủy ban liên chính phủ về di trú châu Âu _(Intergovernmental Committee for
**Ngày Di dân Quốc tế**, viết tắt là **IMD** (International Migrants Day) được cử hành vào ngày **18 tháng 12** hàng năm, là ngày lễ quốc tế do Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc chọn
Cá hồi là một loại cá giàu dinh dưỡng, nhiều người thắc mắc liệu bà bầu có thể ăn cá hồi ngâm tương được không? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé.Cá hồi là một
**Cú đại bàng Á Âu** (danh pháp hai phần: **_Bubo bubo_**), còn gọi là **cú đại bàng**, là một loài cú lớn cư trú ở đại lục Á Âu. Đây là một trong những loài
**Trương Minh Hà** thường được biết đến với nghệ danh **Thanh Hà** (sinh 18 tháng 3 năm 1969 tại Đà Nẵng) là một nữ ca sĩ hải ngoại người Mỹ gốc Việt. Thanh Hà là
**Cá Hồi Hoang** là một ban nhạc alternative rock người Việt Nam được thành lập vào năm 2013 bởi giọng ca Thành Luke (Nguyễn Viết Thành) và tay guitar Nguyễn Thanh Minh. Năm 2014, ban
**Đi bộ** () là một phân môn cự ly dài thuộc điền kinh. Khác với chạy, vận động viên phải đặt ít nhất một chân trên đường chạy trong suốt quá trình thi đấu và
Cá hồi là một loại cá giàu dinh dưỡng, đặc biệt omega 3, loại cá này có thể chế biến nhiều món như sushi, sashimi,...Ăn cá hồi sống mang lại nhiều lợi ích cho sức
Cá hồi là một loại cá giàu dinh dưỡng, đặc biệt omega 3, loại cá này có thể chế biến nhiều món như sushi, sashimi,...Ăn cá hồi sống mang lại nhiều lợi ích cho sức
**Cá hú** (danh pháp hai phần: **_Pangasius conchophilus_** Roberts & Vidthayanon, 1991) là một loài cá nước ngọt, thuộc họ Cá tra (Pangasiidae) trong bộ Cá da trơn (Siluriformes), đây là một dạng cá sát
Công dụng của Set dưỡng chứa chiết xuất tinh dầu thông đỏ và Dna Cá Hồi S-Pdrn Core Pine Needles Therapy S-PDRN Core Pine Needles Therapylà dòng sản phẩm chăm sóc và trị liệu da
Ruốc trứng cá hồi Nhật Bản - Nguồn Omega phong phú cho trẻĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT:- Sản phẩm bao gồm ruốc+trứng cá hồi được đánh bắt tại vùng biển Hokkaido nổi tiếng của Nhật Bản,
MÔ TẢ SẢN PHẨMSerum sụn cá hồi DDS nhà bán hơn 1 năm nay rồi, đắt xắt ra miếng nhưng các chị mua rất nhiều, đặc biệt là shop mình bỏ sỉ cho spa dùng
MÔ TẢ SẢN PHẨMSản Phẩm Mới Trình Làng.Marosa Toner DNA Cá Hồi Tặng Laco Nano Facial [Nước Hoa Hồng Marosa Laco Kèm Máy Phun Sương Cầm Tay Laco]Toner mới dạng đổ nhé. Vì đã có
Sứ mệnh của chuyên mỹ phẩm ngành Spa: Là điểm đến mua sắm mỹ phẩm đáng tin cậy nhất của khách hàng nhờ năng lực cung cấp các dòng mỹ phẩm của các thương hiệu
Sứ mệnh của chuyên mỹ phẩm ngành Spa: Là điểm đến mua sắm mỹ phẩm đáng tin cậy nhất của khách hàng nhờ năng lực cung cấp các dòng mỹ phẩm của các thương hiệu
Tế bào gốc phục hồi, dưỡng da DNA ND-CELL DrsheeDung tích: 10mlTế bào gốc phục hồi ND_CELL Dr.Shee phù hợp cho mọi loại da, kể cả da nhờn mụn và nhạy cảm.Thành phần:Tinh chất trứng
Cá hồi sống là một món ăn lành mạnh, ngon và tốt cho sức khỏe. Món ăn này thường được dùng để àm sashimi, sushi...Cá hồi chứa nhiều omega 3, chất đạm, các loại vitamin
Cá hồi hoang dã và cá hồi nuôi loại cá nào tốt hơn là một thắc mắc của nhiều người. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé.Cá hồi hoang dã hay cá hồi nuôi, đều
BộS-PDRN Core Pine Needles Therapygồm: Tế bào gốc S-PDRN Core Pine Needles Ampoule 10pcs x 2ml Kem dưỡng S-PDRN Core Pine Needles Cream 50g TẾ BÀO GỐC S-PDRN CORE PINE NEEDLES AMPOULE 10PCS X 2ML
**Cá nhám voi** hay **cá mập voi** (danh pháp hai phần: **_Rhincodon typus_**) là một thành viên đặc biệt trong phân lớp Elasmobranchii (cá mập, cá đuối) của lớp Cá sụn (Chondrichthyes). Loài cá này
Collagen Cá Hồi Pizkie Nhật Bản 100% - Bí Quyết Cho Làn Da Đẹp , ngăn ngừa quá trình lão hóa Trong các loại nguyên vật liệu dùng để sản xuất collagen, cá là tốt
Collagen Cá Hồi Pizkie Nhật Bản 100% - Bí Quyết Cho Làn Da Đẹp , ngăn ngừa quá trình lão hóa Trong các loại nguyên vật liệu dùng để sản xuất collagen, cá là tốt