✨Béla IV của Hungary

Béla IV của Hungary

Vua Béla IV (1206 - 3/5/1270) cai trị Hungary và Croatia từ năm 1235 đến năm 1270, đồng thời là Công tước xứ Styria từ năm 1254 đến năm 1258. Là con trai cả của Vua András II, ông được đưa lên ngôi vào năm 1214 bởi nhóm quý tộc có ảnh hưởng lớn từ thời kỳ của cha ông. Cha của ông, người phản đối mạnh mẽ việc đăng quang của Béla, đã không để Béla tiếp quản bất kỳ tỉnh nào cho đến tận năm 1220. Cùng năm, Béla được bổ nhiệm làm Công tước của Slavonia, sở hữu quyền tài phán ở Croatia và Dalmatia. Cũng trong khoảng thời gian này, Béla kết hôn với Maria, con gái của Theodore I Laskaris, Hoàng đế xứ Nicaea. Từ năm 1226, ông cai quản Transylvania với danh hiệu Công tước. Ông hỗ trợ Cơ đốc giáo truyền đạo cho những người Cumans sống ở vùng đồng bằng phía đông tỉnh. Một số thủ lĩnh của Cuman thừa nhận quyền lực của ông phong tước hiệu "Vua của Cumania" cho ông vào năm 1233. Ngày 21 tháng 9 năm 1235, András qua đời và Béla lên kế vị. Ông cố gắng khôi phục quyền lực hoàng gia, thứ vốn đã bị suy giảm dưới thời cha mình. Với mục tiêu trên, ông sửa đổi các khoản tài trợ đất và cho phép khai hoang trong cả vùng đất của hoàng gia, điều đã gây ra sự bất mãn trong giới quý tộc và các giám mục.

Vào ngày 11 tháng 4 năm 1241, quân Mông Cổ xâm lược Hungary và tiêu diệt quân đội của Béla trong trận Mohi. Ông đã trốn thoát khỏi chiến trường song một biệt đội Mông Cổ đuổi theo ông đến tận Trogir trên bờ biển Adriatic. Dù ông sống sót sau cuộc xâm lược, quân Mông Cổ đã tàn phá đất nước Hungary trước khi rút lui bất ngờ vào tháng 3 năm 1242. Béla đã đưa ra những cải cách triệt để nhằm chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc xâm lược của người Mông Cổ lần thứ hai. Ông cho phép các nam tước và giáo chủ dựng các pháo đài bằng đá và thành lập các lực lượng vũ trang riêng của họ. Ông cũng yêu cầu các thị trấn cần được xây sửa kiên cố. Trong triều đại của Béla, hàng ngàn người dân thuộc địa đến từ Đế chế La Mã Thần thánh, Ba Lan và các vùng lân cận khác đã di cư đến những vùng đất bị tàn phá của Hungary. Những nỗ lực của Béla trong việc xây dựng lại đất nước sau chiến tranh đã khiến người đời gọi ông với danh hiệu "người sáng lập nhà nước thứ hai" ().

Ông đã thiết lập một liên minh phòng thủ chống lại quân Mông Cổ, bao gồm Daniil Romanovich, Boleslaw the Chaste, Hoàng tử Halych, Công tước xứ Cracow cùng một số hoàng tử Ruthenian và Ba Lan khác. Các đồng minh của ông đã ủng hộ ông trong việc chiếm Công quốc Styria vào năm 1254, song, vùng đất này sáu năm sau đã bị mất vào tay Vua Ottokar II của Bohemia. Trong thời trị vì của Béla, một vùng cố thủ rộng lớn - bao gồm Barancs (Braničevo, Serbia), Bosnia cùng một số vùng đất mới bị chinh phục khác - đã được thiết lập dọc theo biên giới phía nam của Hungary vào những năm 1250.

Mối quan hệ của Béla với người thừa kế của mình, István, trở nên căng thẳng vào đầu những năm 1260, vì nhà vua lớn tuổi ưu ái con gái của ông là Anna và con út của ông, Béla, Công tước xứ Slavonia hơn người con cả. Nội chiến kéo dài đến năm 1266 và buộc nhà vua phải nhường các lãnh thổ của Vương quốc Hungary ở phía đông sông Danube cho István. Tuy nhiên bên cạnh đó, hoàng tộc của Béla nổi tiếng về lòng mộ đạo: ông qua đời với danh nghĩa là học sinh đại học dòng Phanxicô, và sự tôn kính của ba người con gái thánh thiện của ông - Kunigunda, Yolanda và Margaret - đã được Tòa thánh xác nhận.

Triều đại của Béla IV

thế=Béla's coronation|phải|nhỏ|190x190px| Béla lên ngôi vua (từ [[Illuminated Chronicle)]]

Trước cuộc xâm lược của người Mông Cổ (1235–41)

Vua András qua đời vào ngày 21 tháng 9 năm 1235. Béla, người kế vị cha mình mà không có sự phản đối, được Robert, Tổng giám mục của Esztergom ở Székesfehérvár, đưa lên ngai vàng vào ngày 14 tháng 10. Ngay khi lên ngôi, ông cách chức và trừng phạt nhiều cố vấn thân cận của cha. Trong đó có thể kể đến như việc ông đã xử mù Palatine Denis và bỏ tù Julius Kán. Palatine Denis bị buộc tội có quan hệ ngoại tình với Nữ hoàng Beatrix, góa phụ trẻ của vua András ngay khi người còn tại thế. Béla ra lệnh bỏ tù nhưng cô đã trốn thoát đến Đế chế La Mã Thần thánh, nơi cô sinh ra một người con trai, cũng chính là István Béla và anh trai Coloman không công nhận đó là một người con của hoàng gia.

Cuộc xâm lược Hungary của quân đội Mông Cổ (1241–42)

thế=Ruins of the Sáros Castle, a royal fortress built under Béla|nhỏ|190x190px| Tàn tích của Lâu đài Sáros (Šarišský hrad ở Slovakia), một pháo đài hoàng gia được xây dựng dưới thời trị vì của Béla Vào tháng 12 năm 1240, quân Mông Cổ tập trung tại các vùng đất giáp biên giới với Hungary và Ba Lan dưới sự chỉ huy của Batu Khan. Mông Cổ yêu cầu Béla phục tùng Đại hãn Ögödei của họ, nhưng Béla từ chối nhượng bộ và đã củng cố phòng thủ tại các ngọn núi giáp biên giới. Vào ngày 12/3/1241, quân Mông Cổ phá vỡ các đường phân biệt biên giới ở đèo Verecke (Veretsky Pass, Ukraine), chính thức xâm lược vào vùng đất Hungary.

Vào đầu năm 1242, sông Danube đóng băng đã tạo điều kiện thuận lợi cho quân Mông Cổ băng qua. Một biệt đội Mông Cổ dưới sự chỉ huy của Kadan, con trai của Đại hãn Ögödei, đã đánh đuổi Béla từ thị trấn này sang thị trấn khác ở Dalmatia. Để tị nạn, Béla đã trốn vào trong một thị trấn kiên cố - Trogir. Trước khi Kadan vây hãm thị trấn vào tháng 3, tin tức về cái chết của Đại hãn đã bị lộ ra. Batu Khan muốn tham dự cuộc bầu cử người kế vị Ögödei với đủ quân số nên đã ra lệnh rút toàn bộ lực lượng Mông Cổ khỏi Hungary. Béla, thay cho lời cảm ơn thị trấn Trogir, đã cấp cho nơi này thêm vùng đất gần Split. Tuy nhiên, điều này sau đó là tiền đề cho các xung đột kéo dài giữa hai thị trấn Dalmatian.

"Người sáng lập thứ hai của Nhà nước" (1242–61)

Khi trở về Hungary vào tháng 5 năm 1242, Béla nhận ra đất nước của mình đang mục nát từ bên trong. Sự tàn phá đặc biệt nặng nề có thể kể đến như vùng đồng bằng phía đông sông Danube - nơi ít nhất một nửa các ngôi làng đã bị tiêu diệt. Quân đội Mông Cổ đã dễ dàng tàn phá hầu hết các trung tâm hành chính truyền thống - thời đó được xây bằng các bức tường bằng đất và gỗ. Chỉ những nơi được củng cố tốt, chẳng hạn như Esztergom, Székesfehérvár và Tu viện Pannonhalma, mới có thể chống lại cuộc bao vây thành công. Kế đó, vào năm 1242 và 1243, nạn đói nghiêm trọng đã diễn ra tại đất nước Hungary.

Nguồn tham khảo

 

Thể loại:Người Hungary thế kỷ 13 Thể loại:Vua Croatia Thể loại:Vua Hungary Thể loại:Triều Árpád Thể loại:Mất năm 1270 Thể loại:Sinh năm 1206

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vua** **Béla IV** (1206 - 3/5/1270) cai trị Hungary và Croatia từ năm 1235 đến năm 1270, đồng thời là Công tước xứ Styria từ năm 1254 đến năm 1258. Là con trai cả của
**Nhà vua András II** (, , , ; cuộc đời từ 117721 tháng 9 năm 1235), còn được biết đến là **András của Jerusalem**, là Vua của Hungary và Croatia từ năm 1205 đến năm
nhỏ|235x235px|[[Vương miện Thần thánh Hungary|Vương miện Hungary]] **Vua của Hungary** () là người đứng đầu của Vương quốc Hungary từ năm 1000 (hoặc 1001) đến năm 1918, có tước hiệu là "**Vua Tông đồ Hungary**"
**Salomon** hay **Solomon** (; 1053–1087), là Vua của Hungary từ năm 1063. Là con trai lớn của Andrew I, ông lên ngôi vua vào năm 1057 hoặc 1058. Tuy nhiên, ông buộc phải chạy trốn
nhỏ|346x346px| Trang đầu tiên của cuốn biên niên sử (màu tranh đã được tô đậm) **Chronicon Pictum** (, tiếng Hungary: , tiếng Slovak: ) là một cuốn biên niên sử bằng tranh từ thời Trung
nhỏ|[[Vương miện Thần thánh Hungary|Vương miện Thần thánh của Hungary (Vương miện của Thánh Stephen)]] **Lễ đăng quang của quốc vương Hungary** là một buổi lễ trong đó vua hoặc nữ vương của Vương quốc
thumb|Tỉnh Zakarpattia (màu đậm), phía tây Ukraina. thumb|Huy hiệu của Karpat-Ukraina, hiện được [[tỉnh Zakarpattia sử dụng.]] **Ruthenia Karpat** () là một vùng lịch sử trên ranh giới giữa Trung và Đông Âu, hiện nay
**Cuộc xâm lược châu Âu của người Mông Cổ** vào thế kỷ 13 là một loạt các cuộc chiến nhằm chinh phục mảnh đất này của người Mông Cổ, bằng con đường tiêu diệt các
**Vương quốc Hungary** (tiếng La Tinh: _Regnum Hungariae_, tiếng Hungary: _Magyar Királyság_) là một nhà nước ở Trung Âu, ra đời khi Stephen I, Đại thân vương Hungary, lên ngôi vua vào năm 1000 hoặc
**Lâu đài Sümeg** là một lâu đài được xây dựng trên đỉnh núi, nằm tại thị trấn Sümeg thuộc hạt Veszprém, Hungary. Tòa lâu đài được xây vào khoảng giữa hoặc cuối thế kỷ 13,
**Hungary** () là một quốc gia không giáp biển thuộc khu vực Trung Âu. Có diện tích thuộc lưu vực Carpathian, nước này giáp với Slovakia về phía bắc, Ukraine về phía đông bắc, Romania
**Hungary** là một quốc gia ở Trung Âu. Lịch sử của nó theo tên này từ thời đầu Trung cổ, khi các lưu vực sông Pannonian bị những người Magyar chinh phục. Các vương quốc
nhỏ|Quân thập tự chinh bao vây Damascus năm 1148 **Friedrich I Barbarossa** (1122 – 10 tháng 6 năm 1190) là Hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh từ năm 1155 cho đến khi băng
Dưới đây là danh sách những người cai trị các thế chế quân chủ Hungary cho đến khi sụp đổ vào năm 1918. Trước khi Thân vương quốc Hungary được thành lập, các bộ tộc
**Cộng hòa Slovakia** (tiếng Việt: **Xlô-va-ki-a**; tiếng Anh: **Slovakia** ; tiếng Slovak: , đầy đủ ) là một quốc gia nằm kín trong lục địa tại Trung Âu với dân số trên 5 triệu người
**Louis VII của Pháp** (biệt danh bằng tiếng Pháp: _Louis le Jeune_; tạm dịch _Louis Con_ hay _Louis Trẻ_ 1120 – 18 tháng 9 năm 1180) là vua Pháp, con trai và người kế tục
**Lâu đài Diósgyőr** (tiếng Hungary: _Diósgyőri vár_) là một lâu đài lịch sử có từ thời Trung cổ, tọa lạc tại thị trấn Diósgyőr (nay là một phần của thành phố Miskolc), ở đông bắc
**Philippe II Auguste** (21 tháng 8 năm 1165 - 14 tháng 7 năm 1223) là vua Pháp từ năm 1180 đến khi băng hà. Là một thành viên của nhà Capet, Philippe Auguste sinh ra
**Constanza của Castillla** (tiếng Tây Ban Nha: _Constanza de Castilla_; 1136 hoặc 1140 - 4 tháng 10 năm 1160) là một vương hậu Pháp với tư cách là người vợ thứ hai của Louis VII,
Phục bích (), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
Các chiến binh Công giáo chiếm đóng Jerusalem trong cuộc Thập tự chinh thứ nhất. **Giai đoạn giữa Trung Cổ** là một thời kỳ lịch sử ở châu Âu kéo dài trong ba thế kỷ
**Công quốc Áo** () là một công quốc thời Trung cổ của Đế chế La Mã Thần thánh, được thành lập vào năm 1156 bởi _Privilegium Minus_, khi Phiên hầu quốc Áo (Ostarrîchi) tách khỏi
Hãn **Bạt Đô** (, , ) (khoảng 1205–1255) là một hãn Mông Cổ và đồng thời là người sáng lập ra Hãn quốc Kim Trướng. Bạt Đô là con trai của hãn Truật Xích và
**Kadan**(cũng là **Qadan**), tiếng Trung: Hợp Đan (合丹) là con trai của Khả hãn thứ hai của Mông Cổ Ögedei với một một người tì thiếp. Ông là cháu trai của Genghis Khan và là
**Split** (, như trong từ tiếng Anh _split_; ; xem tên khác) là thành phố lớn thứ hai của Croatia, đồng thời là thành phố lớn nhất vùng Dalmatia. Nó nằm bên bờ phía đông
**Wallachia** hay **Walachia** (, , ;), trong tiếng Rumani là _Țara Românească_ (nghĩa là _Vùng đất của người Rumani_), là một vùng đất lịch sử ở România. Khu vực này nằm ở phía bắc của
**Zalaegerszeg** (tiếng Hungary phát âm: [zɒlɒɛɡɛrsɛɡ] (nghe); tiếng Croatia: Jegersek; tiếng Đức: Egersee) là trung tâm hành chính của hạt Zala ở phía Tây Hungary. Zalaegerszeg nằm trên bờ sông Zala, gần biên Slovenia và
**Phố Cổ Lviv** (; ) là trung tâm lịch sử của thành phố Lviv thuộc tỉnh Lviv, Ukraina. Nó được công nhận là Di tích Lịch sử - Kiến trúc cấp Nhà nước từ năm
**Trogir** (; ; Hy Lạp cổ đại: Τραγύριον, _Tragyrion_ hoặc Τραγούριον, _Tragourion_ _Trogkir_) là một thị trấn cảng lịch sử nằm bên bờ biển Adriatic, thuộc hạt Split-Dalmatia, Croatia. Tổng dân số của thị trấn
**Brezno** (, 1927 - 1948 được gọi là _Brezno nad Hronom_, hoặc _Briesen_, ) là một thị trấn nhỏ ở miền trung Slovakia với dân số khoảng 21.534 người (2013). ## Địa lý Brezno nằm
**Bardejov** (; , , ) là một thị trấn tại Đông Bắc Slovakia. Nó nằm trong khu vực Šariš, thượng lưu sông Topľa, trên các ngọn đồi của dãy núi Beskyd. Thị trấn hiện có
**Trận Mohi** (tiếng Hungary: _Muhi csata_) là một trận đánh giữa Đế quốc Mông Cổ và Vương quốc Hungary, diễn ra vào ngày 11 tháng 4 năm 1241 tại đồng bằng Mohi, tây nam sông
**Isaakios II Angelos** (, _Isaakios II Angelos_; Tháng 9, 1156 – Tháng 1, 1204) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1185 đến 1195, và một lần nữa từ năm 1203 đến 1204. Cha ông
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
nhỏ|Tàn tích của Lâu đài Salgó. **Lâu đài Salgó** là một thành trì của Hungary gần Salgótarján (Nógrád) cách thủ đô Budapest khoảng 120 km. ## Lịch sử Ban đầu nơi đây chỉ là một tảng
**Theodoros I Komnenos Laskaris** (, _Theodōros I Laskaris_; khoảng 1174 – Tháng 8, 1222) là vị Hoàng đế Nicaea đầu tiên trị vì từ năm 1204 hoặc 1205 cho đến năm 1221 hoặc 1222. ##
**Theodoros I Komnenos Laskaris** (, _Theodōros I Laskaris_; khoảng 1174 – Tháng 8, 1222) là vị Hoàng đế Nicaea đầu tiên trị vì từ năm 1204 hoặc 1205 cho đến năm 1221 hoặc 1222. ##
Ngày **3 tháng 5** là ngày thứ 123 (124 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 242 ngày trong năm. ## Sự kiện *1481 – Sultan Mehmed II của Ottoman từ trần với nguyên nhân
**Zagreb** là thủ đô và đồng thời là thành phố lớn nhất Croatia. Đây cũng là trung tâm văn hóa, kinh tế và hành chính nước Cộng hòa Croatia. Dân số thành phố tính đến
**Spišská Nová Ves** là một thị trấn thuộc Vùng Košice của Slovakia. Thị trấn nằm về phía đông nam của dãy núi High Tatras thuộc vùng Spiš và nằm trên cả hai bờ sông Hornád.
thumb|[[Carlo Ferdinando của Hai Sicilie|Carlo Ferdinando của Hai Siclie, Thân vương xứ Capua (trên cùng), cùng với người vợ quý tiện kết hôn của mình Anh-Ailen Penelope Smyth (trái), và con gái của họ, Vittoria
Zvolen (phát âm (trợ giúp • thông tin); tiếng Hungary: Zólyom, tiếng Đức: Altsohl là một thành phố ở miền trung Slovakia, nằm trên ngã ba sông Hron và Slatina, gần Banská Bystrica Với lâu
phải|nhỏ|310x310px|Thân vương quốc Galicia-Volyn trên bản đồ Đông Âu **Thân vương quốc Galicia-Volyn** (1199–1392) (tiếng Nga: _Га́лицко-Волы́нское кня́жество_, , , tiếng Ukraina: _Галицько-Волинське князівство_) là một Thân vương quốc Nga phía tây nam dưới thời