✨Ballade số 2 (Chopin)

Ballade số 2 (Chopin)

Ballade số 2 cung Fa trưởng, Op. 38 là một bản ballade dành cho piano độc tấu của nhà soạn nhạc Frédéric Chopin, được viết và hoàn thành năm 1839. Bản ballade thường được biểu diễn trong khoảng thời gian từ sáu đến tám phút.

Lịch sử

thumb|Chopin - Ballade No. 2 in F major, Op. 38 (Frank Levy)|251x251px Chopin bắt đầu soạn những ý tưởng đầu tiên về bản Ballade, từ năm 1836. Trong suốt khoảng thời gian mùa đông ở Majorca cùng với người tình, George Sand, bản ballade là một trong những ý tưởng chưa được hoàn thành mà Chopin mang theo trong mình. Chopin hoàn thành tác phẩm của mình vào năm 1838, cùng với một lá thư có đề cập đến việc bản Ballade đã hoàn thành. Trong một bức thư gửi ngày 22 tháng 1, 1839, đến người bạn thân của mình, Julian Fontana, Chopin viết rằng: "Cậu sẽ sớm nhận được bản Ballade [cung Fa trưởng], Polonaises [cung La giáng trưởng và cung Đô thứ] và một bản Scherzo".

Chopin đã đề tặng bản Ballade số 2 này cho Robert Schumann, người đã đề tặng ông bản Op. 16, Kreisleriana. Trong nhật ký của mình vào Tháng 10, 1840, Schumann viết rằng: "Một bản Ballade mới của Chopin đã xuất hiện. Bản Ballade này được đề tặng cho tôi. Nó mang lại cho tôi một niềm vui lớn hơn việc tôi nhận được một yêu cầu sáng tác từ một người cầm quyền nào đó".

Cấu trúc

nhỏ|281x281px|Phân đoạn mở đầu của bản Ballade số 2. Phần mở đầu diễn ra lặng lẽ, với một chủ đề bình yên, bằng át âm của cung Fa trưởng, những nốt Đô lặp đi lặp lại ở cả tay trái và tay phải. Sau đó, sự tiến triển diễn ra nhanh chóng với sự xuất hiện của giai điệu du dương, đi kèm với chỉ dẫn sotto voce (chơi một cách lặng lẽ), trước khi chuyển sang cung thứ một cách lạ lẫm khi giai điệu chuyển dịch dần từ cung Fa trưởng sang La thứ, thay vì sang cung Rê thứ, giọng song song với Fa trưởng. Kể từ thời điểm đó, hai giọng Fa trưởng và La thứ thay phiên nhau kể những câu chuyện của mình, như đến từ hai thế giới khác nhau. Phần mở đầu kết thúc với sự lắng mờ dần, tạo nên bởi chỉ dẫn smorzando, và những nốt La lặp đi lặp lại ở tay phải. nhỏ|283x283px|Một phân đoạn khác của Ballade, bắt đầu với chỉ dấu presto con fuoco. Phân đoạn tiếp theo của bản ballade, đối nghịch với phần mở đầu, bùng nổ, phá vỡ đi sự bình lặng bằng chỉ dẫn presto con fuoco (rất nhanh, với một cảm xúc bốc lửa). Thay vì phân đoạn tiếp theo được chơi bằng cung thứ song song, Fa thứ, phân đoạn tiếp diễn bằng sự lặp lại của cung La thứ được biểu diễn ở phần mở đầu. Một học giả nghiên cứu về Chopin, Frederick Niecks viết rằng: "Phần mở đầu của presto... có vẻ không phù hợp với phần trước, nhưng những gì chúng ta nghe thấy sau đó... biện minh cho sự hiện diện của presto". Sự đan xen, lẫn va chạm của hai chủ đề đối nghịch, lặng yên và bùng nổ, quyết định diễn tiến, màu sắc của toàn bộ bản ballade. Sự thay đổi của những chủ đề bình yên là một đặc trưng điển hình trong cách phát triển chủ đề của những bản ballade của Chopin. Ở bản ballade này, sự thay đổi mang tính mạnh mẽ và bùng nổ hơn.

Bản nhạc nhanh chóng trở lại nhịp độ và phong cách ban đầu, và giai điệu đầu tiên được phát triển thêm. Ở đây, Chopin kết hợp các biến thể trên giai điệu không có trong phần mở đầu của bản nhạc. Sự phát triển này tiến triển cho đến khi chủ đề presto con fuoco quay trở lại và trở nên vắn tắt. Lần này, chủ đề quay trở lại ấy cũng được phát triển thêm trước khi kết thúc một cách đột ngột.

Cuối cùng, kết thúc đột ngột ấy xuất hiện với sức mạnh nguyên tố – một thế lực mới, một chủ đề mới... chủ đề cuối cùng, quay trở lại với cung Fa trưởng. Tuy nhiên, bản Ballade ấy lại không kết thúc bằng cách quay về cung Fa trưởng. Ở những ô nhịp cuối cùng, sau khi các yếu tố dữ dội đã lắng xuống, mô típ siciliana được phát triển với một thanh âm nhỏ nhẹ với chỉ dẫn pianissimo, giống như một tiếng vọng xa xôi, như thể tiếng vọng ấy đến từ một thế giới khác. Chủ đề Fa trưởng ban đầu sau đó được lặp lại một lần nữa, nhưng bây giờ, được phát triển ở giọng La thứ (xuất hiện ở phần presto con fuoco), và bản nhạc lắng mờ dần. Và như Schumann đã lưu ý, sự cộng hưởng, lặp lại của chủ đề mở đầu, ở phân đoạn kết thúc này không xuất hiện ở cung gốc (Fa trưởng) mà ở cung thứ hai, cung 'ngoại lai' đó – cung La thứ.

Một số nhà phê bình cho rằng bản Ballade số 2 của Chopin rất có thể lấy cảm hứng từ bài thơ Świtezianka, bài thơ về nữ thần của con hồ Świteź (hồ Sviciaz', ngày nay thuộc Belarus), của đại thi hào Adam Mickiewicz, mặc dù nó không có căn cứ, và đôi khi bản Ballade số 3 của Chopin cũng được cho là lấy cảm hứng từ bài thơ này.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ballade số 2 cung Fa trưởng**, Op. 38 là một bản ballade dành cho piano độc tấu của nhà soạn nhạc Frédéric Chopin, được viết và hoàn thành năm 1839. Bản ballade thường được biểu
**Ballade số 3 cung La giáng trưởng**, Op. 47 là bản ballade thứ ba của nhà soạn nhạc Frédéric Chopin dành cho piano độc tấu. Bản nhạc được viết vào mùa hè năm 1841, được
thumb|Hokanson - Chopin Ballade in F minor No.4 Op.52 (90th Birthday Concert, without applause)|259x259px**Ballade số 4 cung Fa thứ, Op. 52** là một bản ballade dành cho piano được sáng tác bởi Frédéric Chopin vào
Bản **Sonata cho dương cầm số 2** cung Si giáng thứ, Op. 35, là một bản sonata cho dương cầm gồm bốn chương của nhà soạn nhạc người Ba Lan Frédéric Chopin. Chopin hoàn thành tác phẩm
**Frédéric François Chopin** (tên khai sinh là **Fryderyk Franciszek Szopen**; 1 tháng 3 năm 181017 tháng 10 năm 1849) là một nhà soạn nhạc và nghệ sĩ dương cầm người Ba Lan sống trong thời
nhỏ|337x337px|Chân dung Sô-pen năm 25 tuổi - Tranh của nữ nghệ sỹ [[Maria Wodzińska, 1835]] **Frédéric Chopin** đã sáng tác khoảng hơn 240 nhạc phẩm, trong đó có 65 nhạc phẩm được ông cho đánh
nhỏ|Chân dung Frédéric Chopin được Hadi Karimi mô phỏng 3D. **Frédéric Chopin** (1810 - 1849) đã sáng tác 245 nhạc phẩm hoàn chỉnh. Hầu hết các sáng tác của ông dành cho dương cầm, còn
nhỏ| Bản thảo chữ ký của Scherzo số 4, Op. 54 cung Mi trưởng, 1842–1843, [[Thư viện Jagiellońska|Biblioteka Jagiellońska, Kraków]] **Bốn tác phẩm scherzo (hay scherzi)** của Frédéric Chopin là những tác phẩm một chương
**Cuộc thi piano quốc tế Frédéric Chopin** (), gọi tắt là C**uộc thi Chopin**, là một trong những cuộc thi dương cầm cổ điển lâu đời nhất và uy tín nhất trên thế giới. Do
**Aimi Kobayashi** (sinh 23 tháng 9 năm 1995) là nghệ sĩ dương cầm cổ điển người Nhật Bản. Cô sinh sống tại Ube, thuộc quận Yamaguchi cho đến tháng 2 năm 2007 và sau đó
**_Nghệ sĩ dương cầm_** (tựa tiếng Anh: **_The Pianist_**) là bộ phim điện ảnh chính kịch thuộc thể loại tiểu sử, chiến tranh do Roman Polanski đạo diễn và Adrien Brody thủ vai chính. Phim
là vận động viên trượt băng nghệ thuật chuyên nghiệp và cựu vận động viên trượt băng nghệ thuật cạnh tranh người Nhật Bản thi đấu ở hạng mục đơn nam. Anh là nhà vô
**Vladimir Samoylovych Horowitz** (tiếng Ukraina: Володимир Самійлович Горовиць, _Volodymyr Samiilovych Horovyts_; tiếng Nga: Владимир Самойлович Горовиц, _Vladimir Samojlovič Gorovits_; 1 tháng 10 năm 1903 – 5 tháng 11 năm 1989) là một nghệ sĩ piano
**Hélène Grimaud** (phiên âm từ tiếng Pháp: /**_Ê-len Gri-mô/_**, đọc theo tiếng Anh: /eɪʧéɛlèneɪ grɪmoʊ/) là một trong những nghệ sĩ dương cầm xuất sắc nhất qua mọi thời đại, người Pháp, chuyên biểu diễn
**Fa thứ** (viết tắt là **Fm**) là một cung thứ dựa trên nốt Fa (F), bao gồm các nốt: **Fa** (**F**), Sol, **La giáng** (**A**), Si giáng (B), **Đô** (**C**), Rê giáng (**D**), Mi giáng
**Fryderyk Buchholtz** (16 tháng 5 năm 1792 Olsztynek (Hohenstein, Prussia) - 15 tháng 5 năm 1837 Warsaw) là một nhà chế tạo piano và organ. ## Cuộc đời Sau khi hoàn thành việc học chế
**Ignace Joseph Pleyel** (tiếng Pháp: [plɛjɛl]; tiếng Đức: [ˈplaɪl̩]; sinh 18 tháng 6 năm 1757 - mất 14 tháng 11 năm 1831) là một nhà soạn nhạc người Pháp gốc Áo và nhà chế tạo
**Đặng Hữu Phúc** (sinh 4 tháng 6 năm 1953) là một nhà soạn nhạc, nhạc sĩ của Việt Nam. ## Tiểu sử Đặng Hữu Phúc sinh tại Phú Thọ, Việt Nam. Ông học nhạc tại
**Bolero** hay **Boléro** (/ˈbɒl ər əʊ/) là một vũ điệu kèm bản nhạc, thường có nhịp độ chậm vừa. Vũ điệu theo kiểu này gọi là múa bolero, còn bản nhạc theo kiểu này gọi
**_A Real Pain_** là một bộ phim chính kịch hài năm 2024 do Jesse Eisenberg biên kịch, đạo diễn, là sản phẩm hợp tác sản xuất giữa Ba Lan và Hoa Kỳ. Eisenberg và Kieran