thumb|Tiền xu của Artabanus III, đúc tại [[Seleucia vào năm 80/1.]]
''Đối với các vị vua Parthia và những người khác có cùng tên, xem Artabanus.
Artabanus III, trong các nghiên cứu cũ thì ông bị gọi nhầm là Artabanus IV, (sống vào khoảng thế kỷ thứ 1) là một hoàng tử Parthia gốc Iran và có thể mang huyết thống Hy Lạp.
Những đồng tiền còn tồn tại tới ngày nay mà được ban hành dưới triều đại của ông có một số nét tương đồng với những đồng tiền từ triều đại của Artabanus II. Từ điều này, Artabanus III có thể được xem như là một người con trai của Artabanus II.
Ông là một đối thủ tranh giành ngai vàng của đế quốc Parthia dưới triều đại của Pacorus II của Parthia. Triều đại của ông kéo dài chỉ trong vòng một đến hai năm, vì các đồng tiền đúc hình của ông biến mất vào năm 81. Điều này đặt ra khả năng rằng Artabanus III đã bị đánh bại bởi người anh em của mình, vua Pacorus II. Trên tiền xu của mình, ông được biết đến với tên gọi Arsaces Artabanus.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Tiền xu của Artabanus III, đúc tại [[Seleucia vào năm 80/1.]] ''Đối với các vị vua Parthia và những người khác có cùng tên, xem Artabanus. **Artabanus III**, trong các nghiên cứu cũ thì ông
**Artabanus II của Parthia** cai trị Đế quốc Parthia từ khoảng năm 10-38 SCN. Ông là con trai của một công chúa của nhà Arsacid, người đã sống ở miền Đông trong số những người
**Tiridates III của Parthia** (tiếng Ba Tư: تيرداد سوم), cai trị đế chế Parthia một thời gian ngắn từ năm 35-36. Ông là cháu nội của vua Phraates IV. Ông đã được gửi đến Rome
**Orodes III** () được các đại quý tộc đưa lên làm vua của đế quốc Parthia vào năm 4 CN sau cái chết của vua Phraates V (trị vì khoảng năm 2 TCN – năm
**Vonones I của Parthia** ( _Onōnēs_ trên tiền xu của ông) cai trị đế quốc Parthia từ khoảng năm 8 tới 12 CN. Ông là con trai cả của vua Phraates IV của Parthia (trị
**Đế chế Parthia** hay còn được gọi là **Đế chế Arsaces** (247 TCN – 224 CN) (tiếng Việt trong một số tài liệu Phật giáo còn dịch Parthia là **An Tức**) là một quốc gia
**Phriapatius** ( ) hoặc **Priapatius** , đôi khi được gọi là **Phriapites** , là vua của đế quốc Parthia từ năm 191 TCN tới năm 176 TCN. Ông là con trai một người cháu họ
nhỏ|Một thanh niên trong trang phục Parthia, [[Palmyra, Syria vào nửa đầu thế kỷ III. Tượng khắc trang trí. Bảo tàng Louvre.]] **Người Parthia** là một dân tộc miền đông bắc Ba Tư; họ là
**Các cuộc chiến tranh La Mã – Parthia** (Từ năm 66 TCN – 217) là một loạt các cuộc xung đột giữa đế quốc Parthia với người La Mã. Đây là chuỗi các cuộc xung
**Người Ấn-Scythia** là một thuật ngữ được sử dụng để chỉ người Saka (hoặc Scythia), những người đã di cư vào Bactria, Sogdiana, Arachosia, Gandhara, Kashmir, Punjab, Gujarat, Maharashtra và Rajasthan, từ giữa thế kỷ
**Pacorus II của Parthia** ) cai trị Đế chế Parthia từ khoảng năm 78-105. ## Dòng dõi Pacorus II là một người con trai của Vonones II với một người vợ lẽ gốc Hy Lạp,
**Phục bích** (), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Nhà Sassan**, còn gọi là **Sassanian**, **Sasanid**, **Sassanid**, (tiếng Ba Tư: ساسانیان) hay **Tân Đế quốc Ba Tư**, là triều đại Hỏa giáo cuối cùng của Đế quốc Ba Tư trước sự nổi lên của
**Phục bích** (), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
**Vương quốc Hy Lạp-Bactria** cùng với vương quốc Ấn-Hy Lạp là các vương quốc nằm ở cực đông của thế giới Hy Lạp hóa, vương quốc này tồn tại từ năm 256 cho tới năm
**Người Ba Tư** là một dân tộc thuộc nhóm người Iran, những người nói tiếng Ba Tư hiện đại và có liên quan chặt chẽ về ngôn ngữ lẫn sắc tộc với người Iran địa