Ammianus Marcellinus (sinh khoảng năm 330 - mất khoảng năm 391400) là một chiến binh và cũng là nhà sử học người La Mã, tác giả của những ghi chép lịch sử còn tồn tại từ thời cổ đại đến nay. Tác phẩm Res Gestae chép lại lịch sử La Mã từ thời Hoàng đế Nerva năm 96 đến cái chết của Valens trong Trận chiến Adrianople năm 378, mặc dù ngày nay sách chỉ còn sót lại phần sử giai đoạn 353-378.
Đánh giá
phải|nhỏ| Một bản sao của sách Res Gestae in năm 1533
Edward Gibbon đánh giá Ammianus là "một người hướng dẫn chính xác và trung thành, chép sử thời đại mình nhưng không bị định kiến và đam mê chi phối, vốn thường là những nhân tố ảnh hưởng đến tâm trí của người đương thời." Tuy vậy, ông cũng lên án Ammianus vì sự thiếu tinh tế trong cách viết: "Ngòi bút thô lậu và xoàng xĩnh của Ammianus đã phác họa những nhân vật đẫm máu với độ chính xác tẻ nhạt và kinh tởm". Nhà sử học người Áo Ernst Stein đã ca ngợi Ammianus là "thiên tài văn học vĩ đại nhất mà thế giới tạo ra giữa hai thời đại Tacitus và Dante".
Theo Kimberly Kagan, những đoạn sử Ammianus chép về các trận chiến chỉ nhấn mạnh vào trải nghiệm của các chiến binh mà bỏ qua bối cảnh rộng lớn hơn. Kết quả là, người đọc khó có thể hiểu tại sao các trận chiến mà Ammianus tả trong sách lại có kết cục như vậy.
Công trình của Ammianus có đoạn mô tả chi tiết về chuyện sóng thần đã tàn phá thành phố Alexandria và vùng duyên hải miền đông Địa Trung Hải như thế nào vào ngày 21 tháng 7 năm 365. Những mô tả của ông kể lại chính xác hậu quả mang tính điển hình của động đất, đó là gây ra hiện tượng biển lùi và cơn sóng thần bất ngờ ập đến.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ammianus Marcellinus** (sinh khoảng năm 330 - mất khoảng năm 391400) là một chiến binh và cũng là nhà sử học người La Mã, tác giả của những ghi chép lịch sử còn tồn tại
Lãnh thổ của đế quốc Francia, 481–814 SCN. **Người Frank** (phát âm như "Phrăng", hay _gens Francorum_) hoặc **người Francia** là một liên minh các sắc tộc Germanic được ghi nhận sống ở hạ lưu
thumb|333x333px|Tạo hình cataphract thời kỳ [[Sassanid, hoàn toàn phủ giáp kín thân ngựa chiến và kị sĩ. Chú ý là kị sĩ mặc giáp lưới.|alt=]] **Cataphract** hay **thiết kỵ** là một loại kỵ binh nặng
**Người Sarmatia**, **người Sarmatae** hay **người Sauromatae** (tiếng Iran cổ _Sarumatah_ 'người bắn cung') là dân tộc có nguồn gốc từ Thổ Nhĩ Kỳ. Như được các tác giả cổ đại đề cập tới, họ
**Người Saka** (tiếng Ba Tư cổ: ; Kharoṣṭhī: ; tiếng Ai Cập cổ: , ; , tiếng Hán thượng cổ , mod. , ), **Shaka** (tiếng Phạn (Brāhmī): , 12x12px 12x12px, ; tiếng Phạn (Devanāgarī):
**Nhà Sassan**, còn gọi là **Sassanian**, **Sasanid**, **Sassanid**, (tiếng Ba Tư: ساسانیان) hay **Tân Đế quốc Ba Tư**, là triều đại Hỏa giáo cuối cùng của Đế quốc Ba Tư trước sự nổi lên của
Khu vực sinh sống của người Alemanni, những địa điểm các trận chiến giữa người Alemanni và người La Mã, từ thế kỷ 3 tới thế kỷ 6 **Alemanni** (**Alamanni**, **Alamani**) là một liên minh
thumb|upright=1.6|Nơi định cư của tộc Therving và Greuthungi năm 376 Giữa năm 376 và 382 **Chiến tranh Gothic** chống lại Đế quốc Đông La Mã, và đặc biệt là Trận Adrianople, thường được coi là
**Lịch sử của Azerbaijan** là lịch sử của người Azerbaijan và các khu vực liên quan đến lịch sử, dân tộc và địa lý của người Azerbaijan. Dưới sự cai trị của Media và Ba
**Niels Lauritsen Aagaard** (1612— 22 tháng 1, 1657), có lẽ là anh trai của nhà thơ Christen Aagaard, là giáo sư tại Học viện Sorø, ở Đan Mạch, nơi ông cũng giữ chức trưởng văn
nhỏ|Đầu của một phụ nữ tại [[Bảo tàng Glyptothek, Munich, "có thể" là bản sao của bức chân dung tưởng tượng về Sappho của Silanion vào thế kỷ 4 TCN.]] **Sappho** ( _Sapphō_ [sap.pʰɔ̌ː]; tiếng
**Vardanes I của Parthia** cai trị Đế quốc Parthia từ khoảng năm 40-45SCN. Ông kế vị người cha Artabanus II của ông, nhưng đã phải liên tục chiến đấu chống lại Gotarzes II, một đối
**Pacorus II của Parthia** ) cai trị Đế chế Parthia từ khoảng năm 78-105. ## Dòng dõi Pacorus II là một người con trai của Vonones II với một người vợ lẽ gốc Hy Lạp,
**Ursicinus**, cũng được biết đến như là **Ursinus**, người đã được lựa chọn làm Giáo hoàng trong một cuộc cạnh tranh khốc liệt vào năm 366 như là một đối thủ của Giáo hoàng Đamasô
Bản đồ Leptis Magna nhỏ|Di tích Thánh đường Severan Basilica **Leptis Magna**, (tiếng Ả Rập: لبدة ]) còn được gọi là **Lectis Magna** (hoặc **Lepcis Magna** như đôi khi nó được phát âm), còn gọi
**Diodotos I Soter** (Tiếng Hy Lạp: ; tên hiệu của ông có nghĩa là "Vị cứu tinh"; ông sinh vào khoảng năm 285 TCN – mất vào khoảng năm 235 TCN) là vị vua đã sáng
phải|Bản đồ vương quốc Ostrogoth bao gồm Italia và vùng Balkan **Đông Goth** là một nhánh của người Goth (nhánh còn lại là Tây Goth), là một bộ tộc Đông Germanic đã đóng vai trò
**Maride** là lâu đài ở Mesopotamia, được đề cập bởi Ammianus Marcellinus (Ammian. xviii. 6), trong Constantius II. Maride hiện tại giống như Mardin, Thổ Nhĩ Kỳ.
**Trận Hadrianopolis** (ngày 9 tháng 8 năm 378), còn được gọi là **Trận Adrianopolis**, là trận chiến giữa Quân đội La Mã do Hoàng đế Valens thân chinh thống lĩnh và quân nổi dậy Goth
**Galerius** (tiếng Latin: _Gaius Galerius Valerius Maximianus Augustus_, khoảng năm 260 - tháng 4 hoặc tháng 5 năm 311), là Hoàng đế La Mã trong giai đoạn từ năm 305 đến năm 311 Trong triều
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
**Solon** (; TCN) là một chính khách, người làm luật và nhà thơ người Athena. Ông được nhớ đến chủ yếu nhờ các nỗ lực xây dựng luật pháp chống lại sự suy yếu về
**Đại dịch Antonine** từ năm 165 đến 180, còn được gọi là Đại dịch Galen (tên của bác sĩ Hy Lạp sống ở Đế quốc La Mã đã mô tả bệnh dịch này), là một
**Văn học tiếng Latinh** hay **văn học Latin/Latinh** bao gồm các bài tiểu luận, lịch sử, thơ ca, kịch và các tác phẩm khác được viết bằng ngôn ngữ Latinh. Sự khởi đầu của văn
**_Anonym[o]us Valesianus_** là tên gọi thông thường của bộ tổng hợp hai quyển biên niên sử Latinh thông tục chắp vá, được đặt theo tên của người biên soạn sống vào thế kỷ 17 là
nhỏ|Đồng Dinar của hoàng đế Shapur I Xã hội Iran vào thời kỳ Sasan là một xã hội nông nghiệp và do đó, kinh tế Sasan phụ thuộc nhiều vào chăn nuôi và trồng trọt.