Yūbari (tiếng Nhật: 夕張) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo trong những năm 1922-1923. Là chiếc duy nhất trong lớp của nó, Yūbari đã được đưa ra hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai trước khi bị tàu ngầm Mỹ đánh chìm ngoài khơi Palau vào ngày 27 tháng 4 năm 1944.
Thiết kế và chế tạo
Ban đầu Yūbari được thiết kế như một tàu tuần dương tuần tiễu thử nghiệm, có những khả năng tác chiến như một tàu tuần dương hạng nhẹ Nhật với lượng rẽ nước tiêu chuẩn 5.000 tấn trên một lườn tàu nhẹ hơn nhiều. Con tàu được thiết kế bởi Đô đốc Yuzuru Hiraga. Các khẩu pháo chính được bố trí trên trục giữa tàu trên những tháp pháo, và lớp vỏ giáp được tích hợp vào cấu trúc lườn tàu. Tháp chỉ huy được thiết kế nhô ra đáng kể nhằm tăng khả năng đi biển. Hệ thống động lực của tàu khu trục được trang bị nhằm tiết kiệm trọng lượng, với tám nồi hơi Kampon đốt dầu gom vào một ống khói chung lớn.
Yūbari được hoàn tất với lượng rẽ nước vượt quá 419 tấn (13%) so với tải trọng thiết kế, đưa đến hậu quả tầm nước sâu hơn 0,3 m (1 ft) và tốc độ giảm bớt 2,8 km/h (1,5 knot) so với tốc độ thiết kế. Dù sao, con tàu vẫn được xem là thành công, khi nhiều đặc tính của nó được áp dụng trên các tàu chiến Nhật Bản sau này.
Yūbari được tái trang bị đánh kể vào đầu năm 1944 khi hai tháp pháo nòng đơn 140 mm (5,5 inch) được tháo bỏ, và một khẩu đội phòng không 120 mm (4,7 inch) được bổ sung tại vị trí "A" cùng sáu khẩu đội nòng đôi và một khẩu đội ba nòng phòng không 25 mm được tăng cường cùng với radar và thủy lôi.
Lịch sử hoạt động
Yūbari phục vụ tại Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới thứ hai khi nó hoạt động như là soái hạm của lực lượng Nhật Bản tấn công đảo Wake. Nó đã dẫn đầu trong cả hai lần nỗ lực tấn công vào các ngày 11 và 23 tháng 12 năm 1941, và đã bị hư hại do hỏa lực pháo phòng vệ duyên hải của lực lượng Thủy quân Lục chiến trong lần thứ nhất.
Yūbari bị đánh chìm vào ngày 27 tháng 4 năm 1944 ngoài khơi Palau bởi tàu ngầm Mỹ Bluegill.
Danh sách thuyền trưởng
- Masao Sugiura (sĩ quan trang bị trưởng): 1 tháng 3 năm 1923 - 31 tháng 7 năm 1923
- Masao Sugiura: 31 tháng 7 năm 1923 - 1 tháng 12 năm 1923
- Nobuichi Yamaguchi: 1 tháng 12 năm 1923 - 10 tháng 11 năm 1924
- Aijiro Tomioka: 10 tháng 11 năm 1924 - 20 tháng 10 năm 1925
- Kiyoshi Anno: 20 tháng 10 năm 1925 - 1 tháng 11 năm 1926
- Shinpei Kida: 1 tháng 11 năm 1926 - 1 tháng 12 năm 1927
- Shigefusa Morita: 1 tháng 12 năm 1927 - 30 tháng 11 năm 1929
- Takeo Kawana: 30 tháng 11 năm 1929 - 15 tháng 11 năm 1930
- Seitaro Hara: 15 tháng 11 năm 1930 - 1 tháng 12 năm 1931
- Jiro Saito: 1 tháng 12 năm 1931 - 15 tháng 11 năm 1933
- Ko Kiyomiya: 15 tháng 11 năm 1933 - 15 tháng 11 năm 1934
- Daigo Tadashige: 15 tháng 11 năm 1934 - 25 tháng 5 năm 1935
- Seiichi Harada: 25 tháng 5 năm 1935 - 31 tháng 10 năm 1935
- Masao Yamamoto: 31 tháng 10 năm 1935 - 1 tháng 12 năm 1936
- Sueto Hirose: 1 tháng 12 năm 1936 - 15 tháng 11 năm 1937
- Yugoro Hori: 15 tháng 11 năm 1937 - 20 tháng 7 năm 1938
- Shutoku Miyazato: 20 tháng 7 năm 1938 - 15 tháng 11 năm 1938
- Takero Koda: 15 tháng 11 năm 1938 - 1 tháng 11 năm 1939
- Michiaki Kamata: 1 tháng 11 năm 1939 - 15 tháng 11 năm 1939
- Heitaro Edo: 15 tháng 11 năm 1939 - 1 tháng 11 năm 1940
- Masami Ban: 1 tháng 11 năm 1940 - 15 tháng 8 năm 1942
- Yasuji Hirai: 15 tháng 8 năm 1942 - 3 tháng 5 năm 1943
- Morie Funaki: 3 tháng 5 năm 1943 - 26 tháng 12 năm 1943
- Ranji Oe: 26 tháng 12 năm 1943 - 30 tháng 1 năm 1944
- Takeo Nara: 30 tháng 1 năm 1944 - 28 tháng 4 năm 1944
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Yūbari_** (tiếng Nhật: 夕張) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo trong những năm 1922-1923. Là chiếc duy nhất trong lớp của nó, _Yūbari_ đã
**_Furutaka_** (tiếng Nhật: 古鷹) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong giai đoạn từ sau Đệ Nhất thế chiến đến Đệ Nhị thế chiến, là
**_Kako_** (tiếng Nhật: 加古) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong giai đoạn từ sau Đệ Nhất thế chiến đến Đệ Nhị thế chiến, là
**_Aoba_** (tiếng Nhật: 青葉) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó gồm hai chiếc. Tên của nó được đặt theo
**_Tenryū_** (tiếng Nhật: 天龍 - Hán-Việt: Thiên Long) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm hai chiếc. Tên
là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp _Aoba_ bao gồm hai chiếc. Tên của nó được đặt theo đỉnh núi Kinugasa tọa
**Lớp tàu tuần dương _Agano**_ (tiếng Nhật: 阿賀野型軽巡洋艦, Agano-gata keijunyōkan) là những tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Chúng tham gia nhiều hoạt động trong Chiến tranh Thế giới
**Lớp tàu tuần dương _Furutaka**_ (tiếng Nhật: 古鷹型巡洋艦 - Furutaka-gata junyōkan) là một lớp tàu tuần dương hạng nặng bao gồm hai của chiếc Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Chúng được sử dụng trong
**_Kisaragi_** (tiếng Nhật: 如月) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Mutsuki_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, bao gồm mười hai chiếc được chế tạo sau Chiến tranh Thế giới thứ
nhỏ|phải|_Yayoi_ đang bị tấn công vào ngày [[11 tháng 9 năm 1942]] **_Yayoi_** (tiếng Nhật: 弥生) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Mutsuki_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, bao gồm
**_Hayate_** (tiếng Nhật: 疾風) là một tàu khu trục hạng nhất, thuộc lớp _Kamikaze_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản bao gồm chín chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế giới thứ
nhỏ|phải|Các tàu khu trục [[Shigure (tàu khu trục Nhật)|_Shigure_ và _Samidare_ hoạt động ngoài khơi bờ biển Bougainville trong quần đảo Solomon, vài giờ trước trận Hải chiến Vella Lavella vào ngày 7 tháng 10
nhỏ|phải|_Yūzuki_ đang thoát ra khỏi cảng [[Tulagi né tránh cuộc không kích từ tàu sân bay _Yorktown_ vào ngày 4 tháng 5 năm 1942, khi quân Nhật tấn công Tulagi]] **_Yūzuki_** (tiếng Nhật: 夕月) là
**_Mutsuki_** (tiếng Nhật: 睦月) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu khu trục _Mutsuki_ bao gồm mười hai chiếc được chế
**USS _Astoria_ (CA-34)** (trước đó là **CL-34**) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
Tên tàu Nhật tuân theo các quy ước khác nhau từ những quy ước điển hình ở phương Tây. Tên tàu buôn thường chứa từ _maru_ ở cuối (nghĩa là _vòng tròn_), trong khi tàu
**Tàu hộ tống khu trục lớp Abukuma** (tiếng Nhật: あぶくま型護衛艦) là một lớp tàu hộ tống khu trục (DE) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản (JMSDF). Tất cả các tàu
## Lớp thiết giáp hạm (Tạm ngưng sản xuất) Hầu hết ở thời điểm này đều gần như không có _Lớp thiết giáp hạm_ nào được sản xuất, Đây là danh sách các _Thiết giáp
**Trận hải chiến tại đảo Savo** theo tiếng Nhật nó có tên là **Dai-ichi-ji Solomon Kaisen** (第一次ソロモン海戦, だいいちじソロモンかいせん), là một trận hải chiến trên mặt trận Thái Bình Dương trong Thế chiến thứ hai giữa
**USS _Bluegill_ (SS/SSK/AGSS-242)** là một tàu ngầm lớp _Gato_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa
là một bộ phim điện ảnh hành động-giật gân của Nhật Bản công chiếu năm 2000 do Fukasaku Kinji làm đạo diễn, với kịch bản được chắp bút bởi Fukasaku Kenta, dựa trên cuốn tiểu