✨Vườn treo Babylon

Vườn treo Babylon

thumb|Bản khắc màu bằng tay mô tả Vườn treo huyền thoại, với [[Tháp Babel ở phía sau.]] Vườn Treo Babylon là một trong những công trình được nhắc đến trong văn hóa Lưỡng Hà cổ đại. Nó được ca ngợi là một thành tựu nổi bật về kỹ thuật xây dựng với một chuỗi vườn bậc thang, có đủ các loại cây, cây bụi và cây leo đa dạng, tạo nên một ngọn núi xanh lớn được đắp bởi gạch bùn. Vườn treo được cho là được xây dựng tại thành phố cổ đại Babylon, gần thành phố Hillah tỉnh Babil, Iraq ngày nay. Tên của nó được lấy nguồn gốc từ chữ Hy Lạp kremastós (κρεμαστός có nghĩa là "treo qua"), dùng để chỉ những cây cối được trồng trên một cấu trúc trên cao như là ban công hay sân thượng.

Theo một truyền thuyết, vườn treo nằm kế bên một cung điện rất lớn được biết đến với cái tên Kì quan của nhân loại, được xây dựng bởi Nebuchadnezzar II thời Tân Babylon (trị vì 605- 562 TCN), dành tặng cho vợ của mình, Amytis người Media, để làm bà khuây khỏa nỗi nhớ quê hương, nơi vốn có những ngọn đồi và thung lũng xanh tươi. Điều này được ghi chép lại bởi một tu sĩ người Babylon, Berossus, vào khoảng 290 TCN, sau này được dẫn lại bởi Josephus. Vườn treo cũng được gắn với vị nữ vương huyền thoại Semiramis, người được cho là đã trị vì Babylon vào thế kỷ thứ 9 TCN,

Vườn treo là công trình duy nhất trong số Bảy kỳ quan thế giới cổ đại mà vị trí vẫn chưa được xác định chính xác. Có ba giả thuyết được đưa ra để giải thích cho vấn đề này. Thứ nhất, công trình chỉ là một huyền thoại, và các mô tả được nhắc đến trong ghi chép của các tác giả Hy Lạp và La Mã cổ đại như Strabo, Diodorus Siculus và Quintus Curtius Rufus đã tô vẽ một hình ảnh lý tưởng hóa về một khu vườn phương Đông. Thứ hai, Vườn treo đã từng tồn tại tại Babylon, nhưng đã bị phá hủy hoàn toàn trong khoảng thời gian thế kỷ 1 TCN. Thứ ba, khu vườn được nhắc đến trong truyền thuyết thực chất là khu vườn treo do vua Sennacherib của Assyria (704–681 TCN) xây dựng tại thủ đô Nineveh bên bờ sông Tigris, gần thành phố Mosul thời hiện đại.

Mô tả

thumb|Vườn treo của [[Semiramis bởi H. Waldeck]]

Có năm tác giả chính mà những ghi chép về Vườn treo còn tồn tại cho đến ngày nay. Những tác giả này tập trung vào kích thước, thiết kế tổng quan, hệ thống thủy lợi, và mục đích xây dựng của khu vườn.

Josephus (khoảng 37–100 CN) dẫn lại mô tả về Vườn treo từ tác phẩm của Berossus, một tu sĩ đền thần Marduk người Babylon, viết khoảng năm 290 TCN, là tài liệu cổ nhất từng được biết tới có đề cập tới Vườn treo.

Diodorus Siculus (60–30 TCN) có vẻ như đã tham khảo các ghi chép vào thế kỷ thứ 4 TCN của cả hai tác giả Cleitarchus (một nhà sử học của Alexander Đại đế) và Ctesias của Cnidus. Diodorus cho là Vườn treo được xây bởi một ông vua Syria. Ông chỉ ra khu vườn có hình vuông, với mỗi bên dài khoảng bốn plethron (xấp xỉ 120m), được thiết kế theo dạng bậc thang, với tầng trên cùng cao 50 cubit (khoảng 25m). Những bức tường, dày 22 feet (6.7m), được xây bằng gạch. Nền của những bậc thang đủ sâu để chứa rễ của những cây lớn nhất, và khu vườn được dẫn nước tưới từ sông Euphrates gần đó.

Quintus Curtius Rufus (thế kỷ 1 CN) được cho là đã dẫn từ cùng nguồn với Diodorus. Ông cho rằng khu vườn nằm trên đỉnh của một khu thành cổ có chu vi 20 stadion. Ông gắn khu vườn cho một vị vua Syria, cũng cùng lí do xây tặng người vợ nhớ quê hương.

Tài liệu ghi chép của Strabo (64 TCN – 21 CN) có thể là dựa trên tài liệu đã mất của Onesicritus từ thế kỷ 4 TCN. Ông cho rằng khu vườn được tưới tiêu bởi hệ thống máy bơm đinh vít dẫn nước lên từ sông Euphrates.

Nguồn tài liệu cổ điển cuối cùng được cho là độc lập với các nguồn tài liệu khác, Sổ tay Bảy kì quan Thế giới bởi Philo của Byzantium (được viết vào thế kỷ thứ 4 đến thứ 5 CN; không cùng một người với Philo của Byzantium, sống vào khoảng 280 TCN – 220 TCN). Kỹ thuật dẫn nước lên bằng bơm đinh vít được miêu tả bởi Strabo. Philo ca ngợi kỹ thuật xây dựng khu vườn với một khối lượng lớn đất trồng nằm ở trên cao so với nền đất xung quanh, cùng với kỹ thuật tưới tiêu.

Lịch sử tồn tại

thumb|Vẽ lại bức tranh khắc tường từ Cung điện Bắc của Ashurbanipal (669–631 TCN) tại Nineveh, cho thấy một khu vườn xa hoa được tưới bằng hệ thống cống. Các nhà sử học không xác định được vườn treo này có thật sự tồn tại hay chỉ là hư cấu, do không có nguồn tài liệu Babylon đương thời nào nhắc đến khu vườn này. Cũng không có nguồn tài liệu nào nhắc đến Amvitis vợ của Nebuchadnezzar (hoặc bất cứ người vợ nào), tuy nhiên một cuộc hôn nhân chính trị với người Media hoặc Ba Tư cũng không phải điều hiếm gặp. Có nhiều tài liệu ghi chép về các công trình của Nebuchadnezzar, tuy nhiên không hề nhắc tới bất kì khu vườn nào. Tuy nhiên, khu vườn được cho là vẫn tồn tại vào thời điểm các tác giả sau này viết về nó, một số ghi chép được cho là dẫn lại từ những người đã ghé thăm Babylon. tuy có thể do khu vườn chưa trở nên nổi tiếng với người Hy Lạp tại thời điểm mà ông ghé thăm. Rollinger đề xuất rằng Berossus gán công trình vườn treo cho Nebuchadnezzar vì lý do chính trị, sử dụng lại truyền thuyết đó từ một nơi khác.

Khu vườn treo tại Nineveh

Có một giả thuyết cho rằng khu vườn treo Babylon thật ra được xây dựng bởi vua Sennacherib của Assyria (trị vì 704 – 681 TCN) trong cung điện tại Nineveh. Stephanie Dalley chỉ ra rằng trong những thế kỷ sau này, hai địa điểm đã bị nhầm lẫn, và những khu vườn rộng lớn ở cung điện Sennacherib đã bị gán cho Nebuchadnezzar II của Babylon.

Giả thuyết của Dalley dựa trên phân tích các mô tả tiếng Akkadia đương thời, bao gồm các luận điểm chính:

  • Cái tên "Babylon", có nghĩa là "Cánh cổng của những Vị thần" được đặt cho một số thành phố Lưỡng Hà. Sennacherib đã đổi tên các cổng vào thành phố Nineveh theo tên của những vị thần, cho thấy ông muốn thành phố của mình được xem như là "một Babylon".
  • Chỉ có duy nhất ông Josephus ghi lại Nebuchadnezzar là người xây dựng khu vườn; tuy nhiên các tài liệu liên quan đến Nebuchadnezzar không hề nhắc đến khu vườn hay công trình kĩ thuật nào. Diodorus Siculus và Quintus Curtius Rufus nhắc đến một vị vua người "Syria." Trong khi đó, Sennacherib để lại các ghi chép miêu tả khu vườn, và có bằng chứng khảo cổ về kỹ thuật bơm nước ở thời ông. Cháu trai của ông, Assurbanipal đã cho khắc lại hình ảnh khu vườn hoàn chỉnh trên một bức tường của cung điện.
  • Sennacherib gọi cung điện và khu vườn mới của mình là "một kỳ quan của toàn nhân loại". Ông có mô tả cách xây dựng và vận hành của hệ thống bơm đinh vít đưa nước lên khu vườn.
  • Mô tả của các tác giả thời Cổ điển phù hợp với các ghi chép đương thời. Trước trận Gaugamela năm 331 TCN, Alexander Đại đế đã cắm trại bốn ngày gần hệ thống dẫn nước tại Jerwan. Các sử gia đi cùng ông đã có đủ thời gian để tìm hiểu công trình vĩ đại xung quanh họ và ghi chép nó bằng tiếng Hy Lạp. Các văn bản gốc không còn tồn tại nhưng đã được trích dẫn bởi những tác giả Hy Lạp sau này.

Khu vườn của vua Sennacherib không chỉ nổi tiếng với vẻ đẹp của nó như là một ốc đảo xanh tươi quanh năm giữa sa mạc, mà còn bởi hệ thống dẫn nước. Người Assyria có truyền thống xây dựng những khu vườn hoàng gia. Vua Ashurnasirpal II (883–859 BC) đã cho đào một con kênh cắt ngang qua những ngọn núi. Một bức điêu khắc trên tường của Assurbanipal thể hiện hình ảnh khu vườn hoàn chỉnh. Bản khắc gốc và bản vẽ lại hiện được lưu trữ trong Bảo tàng Anh, nhưng không được đem ra trưng bày. Hình ảnh khu vườn bức điêu khắc phù hợp với một số đặc điểm đã được nhắc đến bởi các tác giả cổ điển.

thumb|Ảnh của bức tường điêu khắc ở Assyria, mô tả khu vườn tại thành Nineveh cổ (Mosul Iraq) Sennacherib nhắc đến những khối đá vôi lớn để củng cố hệ thống đê ngăn lũ trong cung điện của mình. Nhiều phần của cung điện đã được khai quật bởi Austin Henry Layard vào giữa thế kỷ 19. Bản quy hoạch thành cổ cho thấy các đường bao nhất quán với khu vườn của Sennacherib, nhưng vị trí chắc chắn vẫn chưa được xác nhận. Khu vực này được sử dụng để làm căn cứ cho quân đội trong thời gian gần đây nên rất khó để nghiên cứu xa hơn

Việc tưới tiêu cho khu vườn đòi hỏi hệ thống cấp nước cho Nineveh phải được nâng cấp. Một hệ thống kênh đào được xây lấn sâu 50 km vào những ngọn núi. Sennacherib rất tự hào về công nghệ của mình và đã miêu tả một vài chi tiết trong các tài liệu để lại. Ông nhắc đến những cánh cổng dẫn nước tự động tại đầu nguồn nước Bavian (Khinnis). Một hệ thống cống nước khổng lồ xuyên qua thung lũng Jerwan được xây dựng từ hơn 2 triệu khối đá mài, sử dụng vòm đá và xi măng chống thấm, trên đó được viết:

Sennacherib Vua của thế gian - Vua của Assyria. Từ nơi xa xôi ta đã xây dựng đường dẫn nước hướng về Nineveh, hợp với các dòng chảy.... Trên thung lũng dốc đứng ta đã dựng một cây cầu cống từ các khối đá vôi trắng, và làm nước chảy qua đó.

Thực vật

thumb|[[Chà là là một loài cây phổ biến ở Babylon.]] Khu vườn, như được mô tả qua các tác phẩm nghệ thuật, có hoa nở rực rỡ, hoa quả chín, thác nước đổ và sân hóng mát dưới tán lá dày. Những loài thực vật có thể có mặt trong khu vườn, dựa theo văn học và truyền thống Babylon, cùng với các đặc điểm môi trường quanh khu vực, bao gồm:

  • Ô liu
  • Mộc qua Kavkaz
  • Chi lê
  • Vả tây
  • Hạnh đào
  • Nho
  • Chà là
  • Tam thất
  • Pistacia atlantica center|thumb|Bức phù điêu "Bữa tiệc trong vườn" mô tả Ashurbanipal cùng vợ ngồi dưới giàn dây nho leo với những quả nho treo lủng lẳng, cũng như những chú chim nhỏ, được bao quanh bởi những cây chà là và cây thông đang đậu quả. Đầu của một vị vua bại trận treo giữa hình thứ 1 và thứ 2 ở bên trái. Cung điện phía Bắc, Nineveh, .
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Bản khắc màu bằng tay mô tả Vườn treo huyền thoại, với [[Tháp Babel ở phía sau.]] **Vườn Treo Babylon** là một trong những công trình được nhắc đến trong văn hóa Lưỡng Hà cổ
**Babylon** (tiếng Hy Lạp: Βαβυλών, tiếng Akkad: _Babili_, _Babilla_) là một thành quốc của Lưỡng Hà cổ đại. Các di tích của thành quốc này được phát hiện ngày nay nằm ở Hillah, Babil, Iraq,
Trong suốt chiều dài lịch sử của loài người, đã xuất hiện rất nhiều nền văn minh từng phát triển rực rỡ, để lại những dấu ấn rực rỡ. Vườn treo Babylon, kim tự tháp
Từ Đại Kim tự tháp Giza trường tồn kiêu hãnh như ngày đầu nó được xây dựng, đến Vườn treo Babylon bóng bẩy và quyến rũ, chuyến hành trình xuyên lục địa và xuyên thời
Trong suốt chiều dài lịch sử của loài người, đã xuất hiện rất nhiều nền văn minh từng phát triển rực rỡ, để lại những dấu ấn rực rỡ. Vườn treo Babylon, kim tự tháp
Trong suốt chiều dài lịch sử của loài người, đã xuất hiện rất nhiều nền văn minh từng phát triển rực rỡ, để lại những dấu ấn rực rỡ. Vườn treo Babylon, kim tự tháp
**Vườn cảnh** là những khu vườn được xây dựng với mục đích làm cảnh phục vụ nhu cầu giải trí, tham quan, du lịch... làm vườn cảnh đã được nâng lên thành một nghệ thuật
**Đế quốc Tân Babylon**, còn được gọi là **Đế chế Babylon thứ hai** và thường được các nhà sử học nhắc đến là **Đế chế Chaldea**, là đế quốc Lưỡng Hà lớn cuối cùng được
**Văn minh cổ Babylon** hay **Babylonia** () là một quốc gia cổ đại nói tiếng Akkad và là một vùng văn hóa có trung tâm tại trung-nam Lưỡng Hà (nay là Iraq và Syria). Ban
nhỏ|300x300px| _Tháp Babel_ của [[Pieter Bruegel il Vecchio|Pieter Bruegel the Elder (1563) ]] **Tháp Babel** (, _Migdal Bavel, Burj Babil)_ là một huyền thoại Sách Sáng Thế 11:1–9, nhằm giải thích về sự bất đồng
**Nebuchadnezzar II** (Tiếng Aram: , phiên âm **Ne-bu-ka-nét-za**, Chữ hình nêm: 𒀭𒀝𒆪𒁺𒌨𒊑𒋀 _Nabû-kudurri-uṣur_) hay **Nabuchodonosor II**, đọc như **Na-bu-cô-đô-nô-do II** (khoảng 642 – 562 TCN) là vua của Vương triều Chaldea xứ Babylon, trị vì
Ziggurat **Lưỡng Hà** (_Mesopotamia_) là một bình nguyên nằm giữa hai con sông Tigris và Euphrates thuộc Tây Á, ngày nay là miền nam của Iraq. ## Giai đoạn 4000 năm trước Công nguyên Các
Thần [[Khorsabad. Hiện vật bảo tàng Louvre.]] Vùng **Cận Đông cổ đại** là quê hương của các nền văn minh sơ khai thời cổ đại trong khu vực gần tương ứng với vùng Trung Đông
**Sennacherib** (chữ hình nêm Tân Assyria: hay , có nghĩa "Sîn thế chỗ các anh") là vua của Đế quốc Tân Assyria từ khi kế vị Sargon II năm 705TCN đến khi bị giết năm
Bài **lịch sử Iraq** gồm một khái quát chung từ thời tiền sử cho tới hiện tại ở vùng hiện nay là đất nước Iraq tại vùng đất Lưỡng Hà. Xem thêm Biên niên sử
nhỏ| Semiramis được thể hiện như một chiến binh [[Chiến binh Amazon|Amazon, trong một bức tranh minh họa, Italia thế kỷ 18 ]] thế=Semiramide, một tác phẩm mang tính biểu tượng rõ ràng của Cesare
**Lưỡng Hà** (tiếng Anh: **Mesopotamia**) là một khu vực lịch sử ở Tây Á nằm trong hệ thống sông Tigris và Euphrates ở phía bắc của Lưỡi liềm màu mỡ. Ngày nay, Lưỡng Hà nằm
nhỏ|[[Bảy kỳ quan thế giới cổ đại|Bảy Kỳ quan thế Giới Cổ đại (từ trái sang phải, từ trên xuống dưới): Kim tự tháp Kheops, Vườn treo Babylon, Đền thờ thần Artemis ở Ephesus, Tượng
**Astyages** (được Herodotos viết là _Ἀστυάγης - Astyages_; Ctesias viết là _Astyigas_; Diodorus Siculus viết là _Aspadas_; Tiếng Akkad: _Ištumegu_; Tiếng Kurd: _Azhdihak_ hoặc _Ajdihak_, ), là vị vua cuối cùng của Đế quốc Media
**Cyaxares**, **Uvaxstra**, hay **Kayxosrew** Ông là cháu nội của vua Deioces - vị vua sáng lập ra Vương quốc Media. Vua của người Scythia là Madius tiến hành chinh phạt xứ Media. Sau này, Hoàng
nhỏ|phải|Giàn rau thủy canh ở Đà Lạt năm 2018 nhỏ|phải|Một vườn cây thủy canh **Trồng cây trong dung dịch (thủy canh)** là kỹ thuật trồng cây không dùng đất mà trồng trực tiếp vào môi
**Archimedes thành Syracuse** (tiếng Hy Lạp: ; khoảng 287 trước Công Nguyên – khoảng 212 trước Công Nguyên), phiên âm tiếng Việt: **Ác-si-mét,** là một nhà toán học, nhà vật lý, kỹ sư, nhà phát
**Sư tử** (_Panthera leo_) là một trong những loài đại miêu của họ Mèo, chi Báo. Được xếp mức sắp nguy cấp trong thang sách Đỏ IUCN từ năm 1996, các quần thể loài này
thumb|_[[Chúa Kitô chịu đóng đinh (Velázquez)|Giêsu chịu đóng đinh_ (kh. 1632), tranh của Diego Velázquez. Bảo tàng Prado, Madrid]] **Sự kiện đóng đinh Giêsu** (còn gọi là _cuộc đóng đinh của Giêsu, cuộc khổ hình
thumb|upright=1.2|[[Queen Elizabeth II Great Court|Great Court được phát triển vào năm 2001 và bao quanh Phòng đọc.]] **Bảo tàng Anh** là một bảo tàng công cộng dành riêng cho lịch sử loài người, nghệ thuật
**Rồng** (chữ Nôm: 𧍰, 𧏵, hay 蠬) hay **Long** (chữ Hán: 龍) là sinh vật thần thoại khổng lồ sở hữu phép thuật xuất hiện trong văn hóa dân gian ở nhiều nơi trên thế
nhỏ|phải|Tranh vẽ về ba nữ phù thủy đang làm nghi thức nhỏ|phải|Họa phẩm về một nữ phù thủy bói toán **Phù thủy châu Âu** hay **phù thủy phương Tây** là hình tượng các phù thủy
**Francis Scott Key Fitzgerald** (sinh ngày 24 tháng 9 năm 1896 tại thành phố Saint Paul, Minnesota, mất ngày 21 tháng 12 năm 1940 tại thành phố Los Angeles, California) là một nhà văn nổi
nhỏ|"[[Capitoline Brutus", một bức tượng chân dung có thể miêu tả Lucius Junius Brutus, người đã lãnh đạo cuộc nổi dậy chống lại vị vua cuối cùng của Rome và là người sáng lập ra
Bốn sách Phúc âm trong Tân Ước là nguồn tư liệu chính cho câu chuyện kể của tín hữu Cơ Đốc về cuộc đời Chúa Giê-su. ## Gia phả và Gia đình Có hai ký
**Cừu** vốn được biết đến nhiều ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là văn hóa phương Tây nơi những con cừu trở thành loại gia súc phổ biến nhất của ngành chăn nuôi.
Dưới đây là **danh sách các quan niệm sai lầm phổ biến**. Các mục trong bài viết này truyền đạt , còn bản thân các quan niệm sai lầm chỉ được ngụ ý. ## Nghệ
thumb|[[Annie Kenney và Christabel Pankhurst đang vận động cho quyền bầu cử của phụ nữ]] **Nữ quyền**, tức **quyền nữ giới** hay **quyền phụ nữ**, là các quyền lợi bình đẳng giới được khẳng định