✨Vĩnh Hưng (huyện)
Vĩnh Hưng là một huyện thuộc tỉnh Long An, Việt Nam.
Địa lý
Huyện Vĩnh Hưng nằm về phía tây nam tỉnh Long An, có vị trí địa lý: Phía đông và phía bắc giáp tỉnh Svay Rieng, Campuchia Phía đông nam giáp thị xã Kiến Tường *Phía tây và phía nam giáp huyện Tân Hưng.
Huyện Vĩnh Hưng nằm ở phía tây nam của tỉnh Long An, thuộc vùng Đồng Tháp Mười. Vĩnh Hưng có tuyến biên giới giáp Campuchia dài 45,62 km (chiếm 31,1% tổng chiều dài biên giới của tỉnh Long An) được xem là vô cùng quan trọng trong việc xây dựng kinh tế kết hợp với củng cố quốc phòng.
Đặc điểm tự nhiên
Khí hậu huyện Vĩnh Hưng mang tính chất đặc trưng nhiệt đới gió mùa với nền nhiệt cao đều quanh năm, ánh sáng dồi dào, lượng mưa khá lớn và phân bố theo mùa. Nhiệt độ bình quân năm là 27,2 °C, tháng 5 là tháng nóng nhất (29,3 °C), tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất 25 °C. Biên độ nhiệt trong năm dao động khoảng 4,3 °C và biên độ nhiệt ngày và đêm dao động cao (từ 8 °C đến 10 °C). Lượng mưa trung bình năm (1.447,7 mm/năm) và phân bố theo mùa rõ rệt, lượng mưa trong mùa mưa thực sự 1.332 mm (92% lượng mưa cả năm), bắt đầu ngày 20 tháng 5 và kết thúc đầu tháng 11 (164 ngày). Mùa mưa trùng với mùa lũ gây ngập úng, cản trở quá trình sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
Nguồn nước mặt
Vĩnh Hưng nằm ở đầu nguồn nước từ phía Campuchia và sông Tiền dẫn vào địa phận của tỉnh Long An. Đây chính là điểm thuận lợi so với các huyện khác như: [Thạnh Hóa, Thủ Thừa, Bến Lức,... của tỉnh Long An.
Sông rạch tự nhiên gồm: Rạch Cái Cỏ, rạch Long Khốt, sông Lò Gạch, rạch Cái Răng, rạch Bông Súng. Đây là các nhánh chính thuộc thượng lưu sông Vàm Cỏ Tây, do thiếu nguồn sinh thủy nên khả năng cung cấp nước tự nhiên vào mùa khô rất hạn chế. Kênh mương: Để phục vụ sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế xã hội, những năm qua đã tập trung vốn và sức người đào kênh mương dẫn ngọt, tiêu úng, xổ phèn, thoát lũ,... (tập trung lớn nhất vào giai đoạn 1987 - 1995).
Chính nhờ có thủy lợi mà việc khai hoang, phục hóa, thâm canh sản xuất lúa, tăng vụ đạt kết quả cao. Tuy nhiên, so với yêu cầu phục vụ sản xuất và sinh hoạt thì nguồn nước vẫn chưa đủ, vì vậy thủy lợi vẫn là vấn đề then chốt đối với Vĩnh Hưng, cần được đầu tư hoàn chỉnh tạo nền tảng cho sản xuất nông nghiệp phát triển bền vững.
Nguồn nước ngầm
Đặc điểm nổi bật về nguồn nước ngầm trong khu vực huyện Vĩnh Hưng là xuất hiện sâu, giá thành cao, nên ít được khai thác.
Hiện nay nước sinh hoạt của nhân dân trong huyện hầu hết dùng nước mưa và nước sông rạch. Nước ngầm do giá thành khai thác cao nên mới có một số điểm tập trung do nhà nước đầu tư.
Ngập lũ là quy luật thường niên của Đồng bằng sông Cửu Long, Vĩnh Hưng cũng là một trong số đó. Lũ lớn đang có xu thế rút ngắn chu kỳ từ 12 năm xuống còn 6 năm và 3 năm (1961, 1978, 1984, 1991, 1994, 1996, 2000) trong đó lũ lịch sử năm 2000 đã gây thiệt hại rất nặng nề cho Vĩnh Hưng.
Ảnh hưởng của phèn - chua: Vĩnh Hưng chỉ bị ảnh hưởng chua nhẹ khoảng 20 ngày sau khi bắt đầu mưa, có thể giải quyết khi hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi. Ảnh hưởng mặn: Mặn 4g/l trên sông Vàm Cỏ Tây bình quân nhiều năm chỉ ngang hoặc qua Tuyên Nhơn: 4 – 5 km về phía thượng lưu. Song, vào các năm 1992, 1993 mặn đã ảnh hưởng sâu hơn và nồng độ mặn cũng cao hơn bình quân nhiều năm. Giới hạn mặn 1g/l đã qua đập Bình Châu (1992) và đến thị trấn Vĩnh Hưng (1993).
Như vậy, độ mặn trên kênh rạch Vĩnh Hưng có tăng; song vẫn nhỏ hơn 4g/l (ngưỡng chịu đựng của các loại cây trồng) nên ít ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng và phát triển của cây trồng.
Tài nguyên
Tài nguyên đất
Toàn huyện có 2 nhóm đất với 6 đơn vị chú giải bản đồ đất; trong đó: nhóm đất xám có diện tích: 31.526 ha (chiếm 81,99% diện tích tự nhiên) và nhóm đất phèn: 5.980 ha (chiếm 15,55% diện tích tự nhiên). Như vậy, 100% diện tích đất thuộc loại đất có vấn đề, đây là một hạn chế của huyện Vĩnh Hưng. Tổng hợp diện tích các nhóm và loại đất ở huyện Vĩnh Hưng cò thể phân loại như sau: Nhóm đất xám: Diện tích là 31.526 ha, chiếm 81,99% diện tích tự nhiên, hình thành các giồng cao phân bố ở hầu hết các xã trong huyện. Đất xám được hình thành trên vật liệu phù sa cổ nên có thành phần cơ giới nhẹ (thịt nhẹ, thịt pha cát), độ phì thấp, nhất là ở các đỉnh giồng đã có biểu hiện bạc màu (nghèo dinh dưỡng). Để sử dụng đất xám cần chú ý 3 vấn đề: dinh dưỡng, tầng kết von và mức độ gley để trồng chuyên lúa hoặc luân canh lúa với cây trồng cạn. Nhóm đất phèn: Nhóm đất phèn có diện tích: 5.980 ha, chiếm 15,55% diện tích tự nhiên. Đất phèn có trị số pH rất thấp và hàm lượng SO2-4cao (0,15 - 0,25%), đặc biệt là các ion Fe2+ và Al3+ dễ gây độc hại cho cây trồng. Vấn đề sử dụng đất phèn trong sản xuất nông nghiệp phụ thuộc chặt chẽ vào khả năng cung cấp nước ngọt trong mùa khô. Đất phèn phân bố chủ yếu ở các xã: Vĩnh Thuận, Vĩnh Trị, Thái Trị, Vĩnh Bình.
Địa chất
Đất đai của huyện Vĩnh Hưng hình thành từ hai loại trầm tích: Trầm tích phù sa non trẻ (Holocene) và trầm tích phù sa cổ (Pleistocene); trong đó chủ yếu là trầm tích phù sa cổ (Pleistocene). Mẫu chất phù sa cổ bao trùm khoảng 84% diện tích tự nhiên nhưng đã bị trầm tích Holocene phủ trùm lên một diện tích không nhỏ. Mẫu chất này có tầng dày từ 3 - 5m, cấp hạt thường thô, tạo cho đất có cấp hạt cát là chủ yếu. Nên phần lớn đất hình thành trên phù sa cổ thuộc nhóm đất xám bị rửa trôi, chua, hoạt tính thấp và bị nhiễm phèn ngoại lai. Trầm tích Holocene bao phủ khoảng 14% diện tích tự nhiên của huyện, nó phủ trùm lên trầm tích phù sa cổ. Đặc trưng cơ bản của đơn vị trầm tích này là sự có mặt của Sulfidic, vật liệu chủ yếu hình thành đất phèn. *Trầm tích không phân chia khoảng 2% diện tích tự nhiên.
Do vậy, khi xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng cần tính toán đầu tư đảm bảo độ ổn định bền vững.
Tài nguyên rừng
Năm 1995, diện tích rừng có 3.035 ha, trong đó hầu hết là tràm cừ; đến năm 2001 diện tích rừng tăng lên 3.933 ha (tỷ lệ che phủ 11,47%) kể cả cây lâu năm và vườn tạp, phần lớn rừng trồng từ trước năm 1995 nên trữ lượng khá.
Nguồn tài nguyên động vật dưới tán rừng đã dần được phục hồi, đây là thành quả đáng ghi nhận của chương trình 773/TTg và 661, đã góp phần sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên cũng như khôi phục hệ sinh thái vốn có của vùng đất phèn.
Tài nguyên thủy sản
Qua điều tra của Viện Nghiên cứu Thủy sản II, có nhận xét: Các thủy vực ở huyện Vĩnh Hưng có những nhóm loài đặc trưng như: tảo lục, tảo bánh xe, côn trùng thủy sinh, nhóm tôm cá nước ngọt. Thủy sinh vật có đến hơn 330 loài, gồm 180 loài tảo, 90 loài động vật nổi, 60 loài động vật đáy. Trên sông Vàm Cỏ Tây có hơn: 50 loài cá, 9 loài tôm; trong đó, cá đồng và tôm càng xanh có giá trị kinh tế nhưng sản lượng không lớn về việc thành lập huyện Vĩnh Hưng trên cơ sở 10 xã: Hướng Điền A, Hướng Điền B, Thái Bình Trung, Thái Trị, Vĩnh Châu A, Vĩnh Châu B, Vĩnh Đại, Vĩnh Lợi, Vĩnh Thanh, Vĩnh Trị của huyện Mộc Hóa.
Ngày 26 tháng 6 năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 74-HĐBT về việc thành lập xã Vĩnh Bình trên cơ sở một phần của xã Thái Bình Trung và một phần của xã Vĩnh Trị.
Ngày 23 tháng 11 năm 1991, Chính phủ ban hành Quyết định số 607/TCCP về việc:
- Thành lập thị trấn Vĩnh Hưng trên cơ sở một phần của xã Vĩnh Trị.
- Thành lập xã Khánh Hưng trên cơ sở một phần của xã Hưng Điền A.
- Thành lập xã Hưng Thạnh trên cơ một phần của 3 xã: Hưng Điền B, Vĩnh Châu B, Vĩnh Thạnh.
Ngày 31 tháng 8 năm 1992, Chính phủ ban hành Quyết định số 549-CP về việc:
- Thành lập xã Thạnh Hưng trên cơ sở một phần của xã Vĩnh Thạnh.
- Thành lập xã Hưng Hà trên cơ sở một phần của xã Hưng Điền B và một phần của xã Vĩnh Thạnh.
Ngày 24 tháng 3 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 27-CP về việc:
- Thành lập xã Hưng Điền trên cơ sở một phần của xã Hưng Điền B.
- Thành lập xã Vĩnh Thuận (mới) trên cơ sở một phần của xã Vĩnh Lợi và một phần của của xã Vĩnh Trị.
- Thành lập thị trấn Tân Hưng trên cơ sở một phần của xã Hưng Thạnh và một phần của xã Vĩnh Thạnh.
- Chuyển xã Tuyên Bình và xã Tuyên Bình Tây thuộc huyện Mộc Hóa về huyện Vĩnh Hưng quản lý.
- Thành lập huyện Tân Hưng trên cơ sở thị trấn Tân Hưng và 10 xã: Hưng Điền, Hưng Điền B, Hưng Hà, Hưng Thạnh, Thạnh Hưng, Vĩnh Châu A, Vĩnh Châu B, Vĩnh Đại, Vĩnh Lợi, Vĩnh Thạnh của huyện Vĩnh Hưng.
Sau khi điều chỉnh, huyện Vĩnh Hưng còn lại 38.238 ha diện tích tự nhiên với 31.924 nhân khẩu, bao gồm 9 xã: Khánh Hưng, Hưng Điền A, Vĩnh Trị, Thái Trị, Thái Bình Trung, Vĩnh Bình, Vĩnh Thuận, Tuyên Bình, Tuyên Bình Tây và thị trấn Vĩnh Hưng.
Huyện Vĩnh Hưng có 1 thị trấn và 9 xã như hiện nay.
Kinh tế - xã hội
Vĩnh Hưng nằm trong vùng Đồng Tháp Mười. Kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp - lâm nghiệp, mà hàng đầu là sản xuất lúa hàng hoá. Huyện giáp Campuchia (có đường biên giới dài 45,62 km), có cửa khẩu Long Khốt (Thái Bình Trung) và Bình Tứ (Hưng Điền A) nên có lợi thế phát triển dịch vụ thương mại qua biên giới (kinh tế cửa khẩu)
Thuận lợi
Xét về vị trí địa lý kết hợp với kiến tạo địa chất trầm tích và quá trình khai thác tài nguyên phát triển kinh tế xã hội cho thấy lợi thế cơ bản của Vĩnh Hưng mật độ dân số đạt người/km².
Giao thông
Có tỉnh lộ 831 nối với quốc lộ 62 đi các tỉnh. Hệ thống giao thông từ huyện đến trung tâm các xã phát triển mạnh, hiện nay đã có 10/10 xã, thị trấn có đường ô tô đến trung tâm. Ngoài ra hệ thống kênh rạch chằng chịt gồm có sông Vàm Cỏ Tây, Sông Long Khốt, Sông Lò Gạch, Tuyến kênh 28, kênh Tân Thành Lò Gạch, kênh Trung Ương, Kênh Hưng Điền… thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hoá và giao lưu với các vùng, diện tích sản xuất đất nông nghiệp 33.780,82 ha, thuận lợi cho trồng lúa và tràm.
Vĩnh Hưng có đường biên giới giáp với Campuchia dài 45,62 km thuận lợi cho việc phát triển thương mại với 3 cửa khẩu: Long Khốt xã Thái Bình Trung, Vàm Đồn xã Hưng Điền A và Cả Trốt xã Khánh Hưng.