✨Vệ Linh công

Vệ Linh công

Vệ Linh công (chữ Hán 衛靈公,?-493 TCN, trị vì 534 TCN - 493 TCN), tên thật là Vệ Nguyên (衛元), là vị vua thứ 28 của nước Vệ - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.

Vệ Linh công nối ngôi quốc quân từ năm 534 TCN từ phụ thân là Vệ Tương công. Dưới thời trị vì của ông, quốc lực nước Vệ được phục hồi phần nào sau các cuộc tranh chấp quyền bính trong nội bộ công thất từ các triều vua trước. Ban đầu Linh công thần phục nước Tấn đang nắm quyền bá chủ ở Trung Nguyên, nhưng về sau khi Tấn suy yếu thì chuyển sang ủng hộ nước Tề đang cường thịnh. Những năm cuối đời ông theo giúp Tề Cảnh công trong các chiến dịch quân sự ở các nước khác và giành được một số lãnh thổ nhất định, và có lần mời Khổng Tử đến giúp việc triều chính cho mình, nhưng không được Khổng Tử chấp nhận.

Linh công bị sử sách coi là một ông vua tham lam và vô đạo. Ở trong cung, ông sủng ái Phu nhân Nam Tử. Nam Tử bị cho là có những hành vi dâm loạn, khiến Thế tử Khoái Hội oán giận muốn giết đi. Kết quả Linh công đuổi Khoái Hội ra nước ngoài. Sau khi Linh công mất, con của Khoái Hội là Triếp được lập lên làm Vệ Xuất công, Khoái Hội cũng từ nước Tấn đưa quân về tranh ngôi với con trai, gây ra cuộc nội chiến cha - con trong nhiều năm sau đó, đẩy nước Vệ lún sâu vào con đường loạn lạc, suy vong.

Thời kì đầu

Thần phục nước Tấn

Ngay sau khi Vệ Tương công vừa mất, các đại phu nước Tấn bàn với nhau phải cư xử tử tế với tự quân của Vệ, vì thế họ cử Hiến Vệ sai điếu tang và trả lại cho Vệ các đất Thích Điền. Cho nên những năm đầu vị trị Vệ Linh công thần phục nước Tấn. Năm 530 TCN, ông cùng Tề hầu và Trịnh bá sang nước Tấn, triều kiến Tấn hầu.

Năm 529 TCN, Vệ Linh công đến dự hội chư hầu do Tấn Chiêu công tổ chức cùng các nước Tống, Lỗ, Trịnh, Tào, Cử, Chu, Đằng, Tiết, Kỷ, Tiểu Châu ở đất Bình Khưu thuộc Vệ quốc.

Loạn Tề Báo

Công Mạnh Trập (tức công tử Trập, anh Vệ hầu) có hiềm khích với bọn Tề Báo, Bắc Cung Hỷ và Chử Sự Phố. Ba người này bèn liên minh với công tử Chiêu, người có tư tình với Tương phu nhân Khương thị, mưu giết Công Mạnh Trập. Tháng 6 năm 522 TCN, nhân lúc Vệ Linh công đang du hành tới ấp Bình Thọ, người nhà họ Tề Báo chặn đánh ở ngoài cửa Cái Hoạch và giết chết Công Mạnh Trập.

Vệ Linh công được tin có biến động, bèn lên ngựa vào thành qua cửa Duyện Môn. Khi xe vua về tới cung, vua truyền cho lấy các đồ quý trong cung thất, rồi bỏ chạy khỏi thành. Khi xe qua đất nhà họ Tề, dù Linh công đã tỏ ý không muốn đánh nhau, nhưng người họ Tề vẫn cố tình bắn vào vua, may có người tùy tùng là Công Nam Sở đứng ra đỡ. Người dân trong kinh thấy Vệ hầu bỏ chạy cũng xách hành lý đi theo. Vệ hầu sau đó ngự tại đất Tử Điều thuộc Vệ quốc.

Giữa lúc đó vua Tề sai công tôn Thanh đến Vệ lễ sính, nghe tin biến động, bèn đổi hướng chạy sang đất Tử Điều để gặp Vệ hầu. Vệ hầu muốn gặp riêng sứ Tề (để nhờ viện binh) nhưng sứ Tề không dám gặp, chỉ tặng cho ông một con ngựa tốt. Lúc này ở trong kinh thành lại có biến động mới. Bắc Cung Hỷ trở giáo giết cả nhà họ Tề, rồi cho đón Vệ Linh công trở lại kinh sư. Vua Vệ sau khi vào thành thì kí minh ước với họ Bắc Cung ở sông Bành. Tháng 8 năm đó, bọn công tử Chiêu, Chủ sự Phố,... đều bỏ trốn tới Tấn quốc. Tháng nhuận năm đó, Vệ Linh công ép chết đích mẫu là Khương thị, và đốt lăng mộ của nhà họ Tề.

Thời kì giữa

thumb|right|Thế cục Trung Nguyên nửa cuối TK 5 TCN) Năm 521 TCN, họ Hoa, họ Hướng nước Tống nổi dậy chống nhau với Tống công. Vệ hầu điều quân hợp với các nước Tấn, Tào cứu vua Tống, đánh họ Hoa. Họ Hoa trốn sang nước Sở.

Năm 517 TCN, Lỗ Chiêu công mâu thuẫn với các họ quý tộc trong nước, bị Quý tôn Ý Như đuổi phải bỏ chạy sang nước Tề. Năm 516 TCN, Vệ Linh công và Tống Cảnh công sai sứ sang Tấn, đề nghị nước Tấn giúp Lỗ Chiêu công về nước, trị tội họ Quý. Nhưng đại phu họ Quý nước Lỗ sai sứ sang đút lót cho đại phu họ Phạm để nước Tấn đừng giúp Lỗ hầu. Các quan khanh đại phu tâu với Tấn hầu rằng họ Quý không có lỗi. Vì vậy nước Tấn bãi binh.

Năm 506 TCN, quốc quân nước Sái là Chiêu hầu vì oán hận nước Sở đòi tiền hối lộ của mình, nên gửi con tin cho Tấn hầu, xin Tấn giúp đánh Sở. Vệ Linh công được hiệu triệu từ nước Tấn, cùng với Lỗ công, Lưu Quyền (quan nhà Chu), Tống công, Sái hầu, Trần tử, Trịnh bá, Hứa nam, Tào bá, Cử tử, Châu tử, Đốn tử, Hồ tử, Đằng tử, Tiết bá, Kỉ bả, Tiểu Châu tử và đại phu Quốc Hạ của nước Tề đến đất Thiệu Lăng bàn việc thảo phạt Sở quốc. Đại phu nước Tấn là Tuân Dần lại đòi nước Sái hối lộ nhưng không được bèn bãi binh rút về. Từ đó nước Tấn mất tín nhiệm của bá chủ với chư hầu.

Tháng 5 cùng năm, chư hầu lại hội họp ở Cao Dữu. Đại phu của Vệ quốc là Tử Hàng Kính tử nói với Vệ Linh công hãy đưa Chúc Đà hầu vua tới hội, Linh công đồng tình. Chúc Đà nói rằng nhiệm vụ của mình khi có việc quân sự mới đi theo phò vua, còn những việc khác thì không có quyền rời khỏi nước. Linh công vẫn đòi Chúc Đà phải đi. Khi xếp thứ tự sáp huyết các đại phu của Tấn lấy nước Sái đứng trên nước Vệ. Vệ hầu bảo Chúc Đà kêu với Trành Hoằng (quan nhà Chu) thì được trả lời là do tổ nước Sái (Sái Thúc) là anh của tổ nước Vệ (Khang Thúc). Chúc Đà viện dẫn lại rằng người quân tử chỉ chuộng đức chứ không chuộng ngôi thứ, vả lại xưa kia Sái Thúc giúp nhà Thương phản nhà Chu. Trành Hoằng bằng lòng, nói với Lưu Quyền (quan nhà Chu) và Phạm Ưởng nước Tấn để Vệ hầu đứng trên Sái hầu.

Năm 504 TCN, Lỗ Định công đem quân đánh nước Trịnh, chiếm được đất Khuông/. Trên đường rút lui, tướng Lỗ là Dương Hổ không thông báo với Vệ Linh công mà hành quân gần kinh đô nước Vệ. Vệ Linh công tức giận, sai Di Tử Hà truy kích quân Lỗ. Sau nhờ có đại phu nước Vệ là Công thúc Văn tử hòa giải, Vệ Linh công mới lui quân, giảng hòa với Lỗ.

Thời kì cuối

Thân Tề phản Tấn

Mùa thu năm 503 TCN, Vệ Linh công có ý muốn bỏ Tấn theo Tề, nhưng các đại phu đều khuyên can. Vệ hầu bèn dàn cảnh sai Bắc Cung Kết xuất sứ Tề quốc, rồi bí mật nhắn với người Tề hãy làm bộ bắt sống Kết rồi lấy đó uy hiếp Vệ. Vì thế Vệ và Tề hội minh ở đất Sa.

Tháng 7 năm 502 TCN, tướng Tấn là Phạm Ưởng nghe tin Vệ và Trịnh hội thề với Tề bèn đem quân đánh cả hai. Vệ Linh công phải cùng với Tấn thề tại đất Chuyên Trạch. Bên Tấn, Thiệp Đà và Thành Hà đứng ra cắt máu cùng với vua Vệ. Người Vệ xin cầm cái tai trâu. Thành Hà nói :Vệ quốc chỉ bằng đất Ôn, đất Nguyên của Tấn quốc tôi. Đâu được coi như một Hầu quốc.

Đến khi sắp sáp huyết, Thiệp Đà nắm lấy tay Vệ Linh công ấn vào thùng máu, ngập đến cổ tay mới thôi. Trước thái độ đó của người Tấn, Vệ hầu vô cùng phẫn nộ. Khi về nước, ông đem chuyện muốn phản nước Tấn nói với quần thần. Vì sợ các đại phu phản đối nên đã dọa sẽ thoái vị, nhưng các đại phu vẫn không nghe. Vua nói người Tấn còn muốn lấy con mình và con cái đại phu làm con tin, các đại phu vẫn đồng ý gửi con tin. Vệ hầu theo lời Vương tôn Cố, bắt luôn cả chon bọn công thương cùng đi (làm con tin). Đến ngày đi, vua mới họp dân lại, và nói khích cho người dân ý muốn phản Tấn. Cho nên Vệ hủy bỏ lời minh ước. Phạm Ưởng bèn liên hợp với nước Thành cùng nhau đánh Vệ, nhân tiện đánh cả Trịnh. Tháng 9, các đại phu họ Quý và Trọng của Lỗ cùng đến xâm Vệ. Vệ Linh công bèn cùng với Trịnh Hiến công hội họp ở Khúc Bộc cùng bàn với chống quân Tấn.

Mùa thu năm 501 TCN, Vệ Linh công cùng Tề Cảnh công đóng quân tại Ngũ thị chuẩn bị đánh nước Tấn, chiếm Di Nghi rồi tấn công sang đất Trung Mâu. Quân Tấn có hơn 1000 chiến xe ở Trung Mâu. Quan đất Trung Môn là Chư sự Phố trước từng làm quan ở Vệ, đánh giá vua Vệ đang ở trong quân, chưa chắc thắng được Vệ, và xin chuyển hướng đánh vào cánh quân Tề, đẩy lui quân Tề ra khỏi Trung Môn. Tề Cảnh công lui quân, tặng cho Vệ Linh công 3 ấp Chước, Di và Mạnh.

Mùa hạ năm 500 TCN, tướng của Tấn là Triệu Ưởng đánh Vệ để báo thù trận Di Nghi, nhưng không thắng, người Tấn hỏi Vệ vì sao lại hủy bỏ minh ước, phía Vệ trả lời là nguyên do Thành Hà và Thiệp Đà. Người Tấn bèn bắt Thiệp Đà để cầu hòa với Vệ, phía Vệ không chịu. Sau đó phía Tấn giết Thành Hà, còn Thiệp Đà trốn sang nước Yến. Mùa đông năm đó, Vệ hầu lại cùng với tướng Trịnh Du Tốc hội minh với Tề hầu ở đất An Phủ.

Mùa hạ năm 498 TCN, Công Mạnh Khu nước Vệ đánh nước Tào, lấy được đất Giao. Tháng 5 năm 496 TCN, Vệ Linh công cùng Lỗ Định công và Tề Cảnh công hội chư hầu ở đất Khiên.

Năm 497 TCN, Tề và Vệ lại đánh Tấn, đóng quân ở đất Cúc Thị. Tề hầu muốn bắt Vệ hầu lên cùng xe với mình, nên giả cách sửa soạn chiến xe có đầy đủ giáp cụ, nói dối là quân Tấn đánh tới, rồi nói với Vệ Linh công rằng xe của quý quân chưa sửa soạn và hãy lên xe với mình, rồi đánh roi cho ngựa chạy; khi biết quân Tấn thực không tới thì mới dừng lại. Năm đó vì cớ Tào không chịu theo Tề phản Tấn, Vệ lại cử quân đánh Tào. Bấy giờ Vệ Linh công dùng binh liên miên, không chú tâm vào việc chánh trị, cho nên đất nước luôn có chiến tranh.

Biến loạn trong cung thất

Đại phu nước Vệ là Công Thúc Văn tử chết, con là Công thúc Tuất lên thế tập. Vì nhà họ Công Thúc giàu sang, nên Linh công thấy ghét. Năm 497 TCN, Công thúc Tuất muốn triệt bỏ bè đảng của Linh phu nhân (Nam Tử, người Tống quốc, sinh ra Thái tử Khoái Hội). Phu nhân buộc tội Công Thúc Tuất làm loạn, Vệ Linh công đuổi hết bè đảng của Tuất ra nước ngoài, không lâu sau đại phu khác là Bắc Cung Kết cũng phải bỏ trốn sang Lỗ.

Linh phu nhân Nam Tử - mẹ của Thế tử Khoái Hội - khi còn ở Tống quốc từng bị đồn có tư thông với anh ruột là Tống Triều. Năm 496 TCN, Vệ Linh công mời Tống Triều sang nước Vệ, người trong nước đều dị nghị, chê cười. Khoái Hội nghe được rất bất bằng, bèn bàn với thủ hạ là Hí Dương Tốc giết bà Nam Tử.

Khi vào yết kiến Nam Tử, Khoái Hội mấy lần ra hiệu nhưng Hí Dương Tốc không động thủ. Nam Tử thấy vậy lo sợ, biết Khoái Hội muốn hại mình liền mách với Linh công. Khoái Hội vội bỏ trốn sang nước Tống rồi lại sang nước Tấn nương nhờ Triệu Ưởng, quan thượng khanh họ Triệu.

Qua đời

Năm 496 TCN, họ Phạm và họ Trung Hàng nước Tấn tranh chấp quyền lực với 4 họ thượng khanh khác. Vệ Linh công bèn cùng với Tề hầu và Lỗ công hội minh ở đất Khiên và Can Hầu lại bàn việc cứu họ Phạm đã bị vây 3 năm. Quân 4 nước Tề, Lỗ, Vệ và Tiển Ngu chiếm được Cức Bồ cho họ Phạm, tuy nhiên không lâu sau khi Linh công mất, họ Phạm vẫn bị tiêu diệt.

Mùa xuân năm 493 TCN, Vệ Linh công đi tuần du ở đất Giao, mang theo người con nhỏ là Vệ Dĩnh, tự Tử Nam được ông yêu quý. Vệ hầu vốn giận Khoái Hội bỏ trốn, nên muốn lập Dĩnh làm Thế tử, nhưng Dĩnh từ chối. Tháng 10 cùng năm, triều đình làm lễ an táng cho Vệ Linh công.

Sau khi Vệ Linh công qua đời, Triệu Ưởng đem quân giúp thế tử Khoái Hội chiếm Thích Ấp để giao tranh với Vệ Xuất công. Vệ quốc liên tiếp xảy ra nội loạn và lệ thuộc vào Tấn quốc, thế lực ngày một suy yếu.

Dật sự

Di Tử Hà

Vệ Linh Công đã từng tin dùng Di Tử Hà, một thanh niên khôi ngô tuấn tú, phong cho làm đại phu. Theo luật pháp nước Vệ, kẻ dùng xe của vua sẽ phải bị chặt chân. Một ngày mẹ Tử Hà bị bệnh, Tử Hà giả mệnh quốc quân, tự ý lấy xe của ông về thăm mẹ. Linh công biết chuyện chẳng những không phạt mà còn khen là người có hiếu. Lần khác Di Tử Hà cùng Vệ Linh công thăm hoa viên, thấy có quả đào ngon bèn tự ý hái ăn trước mặt vua, ăn không hết thì đem phần cắn dở đút vào miệng vua. Linh công không giận mà còn khen: "Tử Hà thật yêu ta! Quên cái miệng của mình mà nhớ đến ta."

Dân gian gọi quan hệ giữa Vệ Linh công là tình cảm chia đào (dư đào đoạn tụ). Tuy nhiên sử sách không nói rõ đây là quan hệ đồng tính luyến ái hay chỉ là tình bạn thân thiết.

Sau đó Vệ hầu có lần dùng roi đánh Tử Hà. Tử Hà từ đó ít lên triều kiến. Vệ Linh công hỏi quan đại phu Chúc Đà. Chúc Đà gièm pha với Linh công rằng Di Tử Hà có lòng oán hận ông. Từ đó ông bắt đầu xa lánh Tử Hà. Một đại phu khác là Sử Ngư bất bình với việc Di Tử được trọng dụng, và tiến cử người hiền là Cừ Bá Ngọc. Vệ hầu ban đầu không nghe. Ít lâu sau Sử Ngư chết, người nhà không hạ táng, lại khuyên ngăn nhà vua.

Ngày qua đi, Di Tử Hà mỗi ngày một già và xấu, không còn được Vệ hầu yêu quý, lại phạm tội. Vệ Linh công lại nghe theo lời Sử Ngư, trọng dụng Cừ Bá Ngọc rồi trị tội trộm xe và tự ý ăn đào trước đây của Tử Hà, nói:

"Nó đã có lần tự tiện đi xe ngựa của ta, lại có lần bắt ta ăn quả đào thừa của nó."

Rồi đuổi ra khỏi cung.

Tiếp đón Khổng Tử

thumb|right|Khổng Tử ([[551 TCN - 479 TCN)]]

Năm 496 TCN, Khổng Tử từ Lỗ đến nước Vệ, Vệ Linh công tiếp đãi Khổng Tử. Khổng Tử ở Vệ được hơn một tháng thì Vệ Linh công cho đòi vào gặp. Lúc Vệ hầu đi chơi thì cho Tiểu quân (phu nhân) Nam Tử ngồi cùng xe, có hoạn quan Ung Cừ kéo xe, chỉ cho Khổng Tử ngồi xe thứ. Khổng Tử than: ''"Vệ hầu yêu đức không như yêu sắc"

Sau đó từ tạ, đi khỏi nước Vệ để đến nước Tào. Sau này Linh công cho triệu lại Khổng Tử, và hỏi Ngài về việc chiến trận. Khổng Tử đáp: :Về việc tế tự, lễ khí thì tôi đã từng nghe được, còn về quân lữ thì tôi chưa học.

Sự kiện này gọi là Vệ Linh công vấn trận ư Khổng Tử. Sở dĩ Đức Khổng Tử không bàn về chiến trận cho Vệ Linh Công nghe, bởi vì cho ông là vua vô đạo; sợ nói về thuật chiến đấu chính là chắp thêm cánh cho hổ thì nguy hiểm. Hôm sau Vệ Linh Công đang nói chuyện với Khổng Tử, thấy con ngỗng trời bèn ngẩng đầu lên nhìn, sắc mặt có vẻ không để ý gì đến Khổng Tử, Khổng Tử lại bỏ đi đến nước Trần :Có Trọng Thúc Ngữ coi việc ngoại giao, Chúc Đà coi việc tế tự, Vương Tôn Giả coi việc quân. Dùng người như vậy, sao mất ngôi được?

Tư Mã Thiên trong Sử ký có lời bình luận về mối quan hệ của Vệ Linh công và Di Tử Hà như sau:

''Việc làm của Di Tử không khác, nhưng lần trước được khen là hiền, lần sau lại phạm tội, đó là vì lòng yêu ghét hết sức thay đổi. Cho nên được nhà vua yêu thì cái khôn của mình càng làm cho mình được thân, bị nhà vua ghét thì cái tội của mình càng làm cho mình bị ruồng bỏ

Gia quyến

  • Cha: Vệ Tương công
  • Mẹ: Thị ngự Chu Ấp
  • Anh em: Công Mạnh Trập
  • Vợ: Nam Tử (? - 479 TCN), con gái Tống Bình công.
  • Con cái ** Vệ Bá Cơ (? - 477 TCN), lấy Khổng Văn tử, sau thông gian với Hồn Lương Phu.
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vệ Linh công** (chữ Hán 衛靈公,?-493 TCN, trị vì 534 TCN - 493 TCN), tên thật là **Vệ Nguyên** (衛元), là vị vua thứ 28 của nước Vệ - chư hầu nhà Chu trong lịch
**Vệ Trang công** (chữ Hán: 衛莊公, trị vì 479 TCN-478 TCN), tên thật là **Cơ Khoái Hội** (姬蒯聵), là vị quân chủ thứ 30 của nước Vệ - chư hầu nhà Chu trong lịch sử
thumb|Phù hiệu cổ áo Tướng lĩnh Công an nhân dân Việt Nam. **Tướng lĩnh Công an nhân dân Việt Nam** là những sĩ quan trong Công an nhân dân Việt Nam mang quân hàm cấp
**Vệ Tương công** (衞襄公, trị vì 543 TCN-535 TCN), tên thật là **Cơ Ác** (姬惡), là vị quân chủ thứ 27 của nước Vệ - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Vệ Xuất công** (chữ Hán: 衛出公, trị vì 493 TCN-480 TCN. Năm 481 TCN, Hướng Đồi chiếm đất nước Tào cũ (đã bị Tống diệt) để chống lại Tống Cảnh công. Cảnh công đánh đất
**Vệ Điệu công** (chữ Hán: 衛悼公, trị vì 469 TCN-451 TCN hay 455 TCN-451 TCN), tên thật là **Cơ Kiềm** (姬黔), là vị quân chủ thứ 33 của nước Vệ - chư hầu của nhà
**Linh Công** (chữ Hán: 霊公) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách * Đông Chu Tấn Linh công * Đông Chu Trần Linh công * Đông Chu Trịnh Linh công
**Vệ Thương công** (chữ Hán: 衛殇公, trị vì: 559 TCN-547 TCN,), là vị quân chủ thứ 26 của nước Vệ - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Sử sách
**Vệ Thành công** (衛成公, trị vì 635 TCN-600 TCN), tên thật là **Cơ Trịnh** (姬鄭), là vị quân chủ thứ 21 của nước Vệ - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc ##
**Vệ Trưởng công chúa** (chữ Hán: 衛長公主; 138 TCN - 91 TCN), còn gọi **Đương Lợi công chúa** (當利公主), là một Hoàng nữ và là Công chúa nhà Hán, con gái đầu lòng của Hán
**Tấn Linh công** (chữ Hán: 晉靈公, cai trị: 620 TCN – 607 TCN), tên thật là **Cơ Di Cao** (姬夷皋), là vị quân chủ thứ 26 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong
**Tề Linh công** (chữ Hán: 齊靈公; cai trị: 581 TCN – 554 TCN), tên thật là **Khương Hoàn** (姜環), là vị vua thứ 24 của nước Tề - chư hầu nhà Chu trong lịch sử
**Trần Linh công** (chữ Hán: 陳靈公; trị vì: 613 TCN - 599 TCN), tên thật là **Quy Bình Quốc** (媯平國), là vị vua thứ 19 của nước Trần – chư hầu nhà Chu trong lịch
**Hùng Linh Công** là cháu ruột của vua và là một danh tướng thuộc đời Hùng Vương thứ sáu. Ông được vua trao cho kim đao và 3 vạn binh mã đi tiên phong cùng
**Bùi Quang Thanh** (sinh ngày 2 tháng 7 năm 1977 tại xã Nam Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình) là tướng lĩnh Công an nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng. Ông hiện giữ
**Lê Xuân Minh**, sinh năm (1976), là một tướng lĩnh Công an nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng. Ông hiện giữ chức vụ Cục trưởng Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm
**Vệ Bình hầu** (chữ Hán: 衛平侯; trị vì: 332 TCN-325 TCN), tên thật là **Cơ Kính** (姬勁) hay **Tử Nam Kính** (子南勁), là vị vua thứ 41 của nước Vệ, thời Chiến Quốc trong lịch
**Lê Thanh Hải** là một tướng lĩnh Công an nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng và là chính trị gia người Việt Nam. Ông hiện giữ chức vụ Phó Chánh Thanh tra Bộ Công
**Vệ** (Phồn thể: 衞國; giản thể: 卫国) là một quốc gia chư hầu của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Lãnh thổ nước này là vùng đất ngày nay thuộc miền bắc tỉnh Hà
**Vệ Khang thúc** (chữ Hán: 衞康叔), tên thật là **Cơ Phong** (姬封), là vị vua đầu tiên của nước Vệ – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Cơ Phong
**Vệ quân Ban Sư** (chữ Hán: 衛君般師; trị vì: 477 TCN), tên thật là **Cơ Ban Sư**, là vị vua thứ 31 của nước Vệ – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Vệ Thành hầu** (chữ Hán: 衞成侯; trị vì:371 TCN- 342 TCN), tên thật là **Cơ Sắc** (姬遫), theo thế bản là **Cơ Bất Thệ** (姬不逝), là vị vua thứ 39 của nước Vệ – chư
**Hội đồng Quốc tế về Toán Công nghiệp và Ứng dụng**, viết tắt theo tiếng Anh là **ICIAM** (International Council for Industrial and Applied Mathematics) là một _tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận
**Vệ quân Khởi** (衛君起, trị vì 477 TCN), tên thật là **Cơ Khởi** (姬起), là vị quân chủ thứ 32 của nước Vệ - chư hầu của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Theo
**Công giáo tại Việt Nam** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ
**Giuse Nguyễn Chí Linh** (sinh ngày 22 tháng 11 năm 1949) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam, ông từng đảm trách vai trò Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế và
**Võ Nguyễn Hoài Linh** (sinh ngày 18 tháng 12 năm 1969), thường được biết đến với nghệ danh **Hoài Linh**, là một nam diễn viên kiêm nghệ sĩ hài người Việt Nam. Ông là một
**Cương lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam** là văn bản trình bày tóm tắt mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ và phương pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh chính
**Linh Từ Quốc mẫu** (chữ Hán: 靈慈國母,1193[?]–1259), hay còn gọi là **Kiến Gia Hoàng hậu** (建嘉皇后), **Thuận Trinh Hoàng hậu** (順貞皇后) hay **Huệ hậu** (惠后), là Hoàng hậu cuối cùng của nhà Lý với tư
**Khởi nghĩa Hùng Lĩnh** là một cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ 19 trong lịch sử Việt Nam. Công cuộc này khởi phát năm 1887 tại Hùng Lĩnh
**Linh dương đầu bò** là linh dương thuộc chi **_Connochaetes_** và là động vật bản địa ở Đông Phi và Nam Phi. Chúng thuộc về họ Bovidae, bộ Artiodactyla, trong đó bao gồm linh dương,
**Công nghiệp Quốc phòng** là bộ phận của kinh tế quân sự, có chức năng sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị và sản xuất các vật tư, trang bị hậu cần cần thiết
**Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội**, thường dược biết đến dưới tên giao dịch **Viettel** hay **Tập đoàn Viettel**, là một tập đoàn viễn thông và công nghệ Việt Nam được thành
Tiền giấy mệnh giá 500 [[đồng Việt Nam Cộng hòa|đồng phát hành năm 1966]] **Kinh tế Việt Nam Cộng hòa** (1955-1975) là một nền kinh tế theo hướng thị trường, đang phát triển, và mở
nhỏ|[[Đền thờ Công chúa Phất Kim ở Hoa Lư]] **Công chúa nhà Đinh** gồm có các con gái của Vua Đinh Tiên Hoàng được ghi chép trong chính sử và dã sử. Nếu như sử
nhỏ|linh ảnh [[Giê-su|Chúa Giê-xu Ki-tô do hoạ sĩ nổi tiếng Nga Andrei Rublev vẽ.]] **Linh ảnh**, **ảnh thánh**, **thánh tượng**, hay **ảnh tượng**, (tiếng Anh: _icon_, chữ Hi Lạp: _Αγιογραφία_, chữ Nga: _Икона_, chữ Hán:
**Lính cứu hỏa** () là lực lượng phản ứng đầu tiên được huấn luyện chuyên nghiệp về phòng cháy chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Họ có nhiệm vụ kiểm soát và dập tắt
Công ty TNHH Công nghệ ENDOTA là công ty chuyên về lĩnh vực thiết kế và xây dựng hệ thống xử lý nước thải, dịch vụ tư vấn hồ sơ môi trường. Công ty TNHH
Công ty TNHH Công nghệ ENDOTA là công ty chuyên về lĩnh vực thiết kế và xây dựng hệ thống xử lý nước thải, dịch vụ tư vấn hồ sơ môi trường. Công ty TNHH
**Trung tâm Thông tin y tế Quốc gia** là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Y tế, có chức năng tổ chức xây dựng, vận hành khai thác cơ sở dữ liệu
**Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam** (gọi tắt: **Chủ tịch nước**) là nguyên thủ quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là người đứng đầu
**Trịnh Công Sơn** (28 tháng 2 năm 1939 – 1 tháng 4 năm 2001) là một nam nhạc sĩ người Việt Nam. Ông được coi là một trong những nhạc sĩ lớn nhất của tân
nhỏ|"[[Capitoline Brutus", một bức tượng chân dung có thể miêu tả Lucius Junius Brutus, người đã lãnh đạo cuộc nổi dậy chống lại vị vua cuối cùng của Rome và là người sáng lập ra
**Tề Cảnh công** (chữ Hán: 齊景公, bính âm: Qí Jǐng Gōng; cai trị: 547 TCN – 490 TCN), họ **Khương** (姜) hay **Lã** (呂), tên thật là **Chử Cữu** (杵臼), là vị quốc quân thứ
**Bộ trưởng Bộ Công an nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam** gọi tắt là **Bộ trưởng Bộ Công an**, là thành viên chính phủ Việt Nam đứng đầu Bộ Công an. Bộ
**Việt Nam Dân chủ Cộng hòa** (**VNDCCH**), cũng được gọi là **Bắc Việt** (), là một nhà nước ở Đông Nam Á tồn tại từ năm 1945 đến năm 1976. Là một thành viên Khối
**Đảng Cộng sản Việt Nam** là đảng cầm quyền và là chính đảng duy nhất được phép hoạt động tại Việt Nam theo Hiến pháp. Theo Cương lĩnh và Điều lệ chính thức hiện nay,
**Linh dương Saiga**, tên khoa học **_Saiga tatarica_**, là một loài động vật có vú trong họ Bovidae, bộ Artiodactyla, được Linnaeus mô tả năm 1766.. ## Phân bố và môi trường sống Linh dương
**Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản**, tên chính thức trong tiếng Nhật là , là lực lượng vũ trang của Nhật Bản, được thành lập căn cứ Luật Lực lượng phòng vệ năm 1954. Lực
**Binh chủng Đặc công** là binh chủng chiến đấu đặc biệt tinh nhuệ của Quân đội nhân dân Việt Nam, do Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp quản lý