✨U-79 (tàu ngầm Đức) (1941)

U-79 (tàu ngầm Đức) (1941)

U-79 là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực hiện được sáu chuyến tuần tra, đánh chìm được hai tàu buôn tổng tải trọng cùng một tàu chiến tải trọng 625 tấn, đồng thời gây hư hại cho một tàu buôn khác. Trong chuyến tuần tra cuối cùng trong Địa Trung Hải, U-79 bị các tàu khu trục Anh và đánh chìm về phía Bắc Sollum, Ai Cập vào ngày 23 tháng 12, 1941.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

thumb|left|Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn). Con tàu có chiều dài chung , lớp vỏ trong chịu áp lực dài , mạn tàu rộng , chiều cao và mớn nước .

Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất , dẫn động hai trục chân vịt đường kính , cho phép đạt tốc độ tối đa , và tầm hoạt động tối đa khi đi tốc độ đường trường . Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện AEG GU 460/8–27 tổng công suất . Tốc độ tối đa khi lặn là , và tầm hoạt động ở tốc độ . Con tàu có khả năng lặn sâu đến .

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi , bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.

Chế tạo

U-79 được đặt hàng vào ngày 25 tháng 1, 1939, rồi gây hư hại cho tàu chở dầu Hà Lan Tibia tại tọa độ về phía Tây Nam Iceland vào ngày 27 tháng 6. Chiếc tàu ngầm kết thúc chuyến tuần tra và đi đến cảng Lorient bên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp đã bị Đức chiếm đóng, đến nơi vào ngày 5 tháng 7.

Chuyến tuần tra thứ hai

U-79 khởi hành từ Lorient vào ngày 21 tháng 7, 1941 cho chuyến tuần tra thứ hai để hoạt động ngoài khơi vịnh Biscay và bờ biển Bồ Đào Nha. Đến ngày 12 tháng 8, chiếc tàu ngầm bị các tàu hộ tống một đoàn tàu vận tải tấn công bằng mìn sâu ngoài khơi bờ biển Bồ Đào Nha và bị hư hại, nên phải kết thúc sớm chuyến tuần tra và quay trở về căn cứ Lorient vào ngày 16 tháng 8.

Chuyến tuần tra thứ ba

Chuyến tuần tra thứ ba của U-79 trong vịnh Biscay chỉ kéo dài năm ngày (từ ngày 14 đến ngày 18 tháng 9). Tại đây nó đã đánh chìm pháo hạm (625 tấn) ở vị trí về phía Đông Bắc Bardia (El Burdi), Libya vào ngày 21 tháng 10; tuy nhiên Gnat sau đó được trục vớt và sửa chữa, và phục vụ như một bệ pháo cố định. U-79 kết thúc chuyến tuần tra và đi đến đảo Salamis, Hy Lạp vào ngày 23 tháng 10.

Chuyến tuần tra thứ sáu - Bị mất

Xuất phát từ Salamis, Hy Lạp vào ngày 21 tháng 12, 1941 cho chuyến tuần tra thứ sáu, cũng là chuyến cuối cùng trong chiến tranh, U-79 tiếp tục hoạt động dọc bờ biển Bắc Phi ngoài khơi Libya và Ai Cập. Chỉ hai ngày sau đó, 23 tháng 12, nó bị các tàu khu trục Anh và phát hiện và tấn công bằng mìn sâu. U-79 đắm ở vị trí về phía Bắc Sollum, Ai Cập, tại tọa độ ; toàn bộ 44 thành viên thủy thủ đoàn đều sống sót và bị bắt làm tù binh chiến tranh.

"Bầy sói" tham gia

U-79 từng tham gia bầy sói:

  • Goeben (28 tháng 9 – 5 tháng 10, 1941)

Tóm tắt chiến công

U-79 đã đánh chìm được hai tàu buôn tổng tải có trọng cùng một tàu chiến tải trọng 625 tấn, đồng thời gây hư hại cho một tàu buôn khác:

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_U-79_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
Ít nhất hai tàu ngầm của Hải quân Đức từng được đặt cái tên **_U-79_**: * là một tàu ngầm hạ thủy năm 1916, phục vụ trong Thế Chiến I và đầu hàng năm 1918,
**_U-38_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1938, nó đã thực
**Chiến dịch Krym – Sevastopol (1941–1942)** bao gồm toàn bộ các trận chiến đấu của quân đội Xô Viết và quân đội Đức Quốc xã cùng với quân Romania tại bán đảo Krym từ tháng
**Mặt trận Baltic** là một trong ba mục tiêu tấn công đầu tiên của quân đội Đức Quốc xã trong Chiến dịch Barbarossa. Trong tuần lễ đầu tiên của cuộc Chiến tranh Xô-Đức, tại đây
**HMS _Grove_ (L77)** là một tàu khu trục hộ tống lớp Hunt Kiểu II của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được hạ thủy năm 1941 và đưa ra phục vụ vào năm 1942. Nó
**Chiến dịch Pedestal** (, **Trận chiến giữa tháng Tám**), được người dân Malta gọi là **** (, **Đoàn vận tải Santa Maria**), là một chiến dịch tiếp vận đảo Malta của Hải quân Hoàng gia
**USS _Thomas_ (DD–182)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được chuyển cho Anh Quốc dưới tên gọi **HMS
**USS _Rodman_ (DD-456/DMS-21)**, là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, cải biến thành
**HMS _Foresight_ (H68)** là một tàu khu trục lớp F được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó hoạt động như
**HMS _Byron_ (K508)** là một tàu frigate lớp _Captain_ của Hải quân Hoàng gia Anh hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hoa Kỳ chế tạo như chiếc DE-79 (chưa
**Trận chiến Đại Tây Dương** được xem là trận chiến kéo dài nhất trong lịch sử Chiến tranh thế giới thứ hai mặc dù có nhiều nhà sử học, nhà nghiên cứu hải quân của
**_Vittorio Veneto_** là một thiết giáp hạm lớp _Littorio_ của Hải quân Hoàng gia Ý (Regia Marina) trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được đặt tên theo Trận Vittorio Veneto, một trận
**_Littorio_** là thiết giáp hạm dẫn đầu lớp thiết giáp hạm _Littorio_ của Regia Marina (Hải quân Hoàng gia Ý) trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được đặt theo tên gọi của
**USS _Washington_ (BB-56)**, chiếc thiết giáp hạm thứ hai trong lớp _North Carolina_ vốn chỉ bao gồm hai chiếc, là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này
**HMS _Whitaker_ (K580)** là một tàu frigate lớp _Captain_ của Hải quân Hoàng gia Anh hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hoa Kỳ chế tạo như chiếc DE-571 (chưa
**HMS _Liverpool_ (C11)**, tên được đặt theo thành phố cảng Liverpool phía Tây Bắc nước Anh, là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp Town của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc đã phục
**Boeing B-17 Flying Fortress** **(Pháo đài bay)** là kiểu máy bay ném bom hạng nặng 4 động cơ được phát triển cho Không lực Hoa Kỳ (USAAF) và được đưa vào sử dụng vào cuối
**Máy bay ném/thả ngư lôi** là một máy bay quân sự được thiết kế chủ yếu để tấn công tàu thuyền bằng ngư lôi trên không. Máy bay ném ngư lôi đã tồn tại ngay
**Lớp thiết giáp hạm _Littorio**_ là một lớp thiết giáp hạm của Regia Marina (Hải quân Hoàng gia Ý). Lớp này bao gồm bốn tàu - _Littorio_, _Vittorio Veneto_, _Roma_, và _Impero_ - nhưng chỉ
**Chiến dịch Neptune** (mã hiệu: **Halcyon**), là mật danh của **cuộc đổ bộ vào Normandie**, chiến dịch đổ bộ đường biển kết hợp với đường hàng không của quân đội Đồng Minh ở Chiến dịch
**Rijeka** (tiếng Croatia: _Rijeka_, tiếng Ý và tiếng Hungary: _Fiume_, tiếng địa phương Chakavia: _Reka_ hoặc _Rika_, tiếng Slovenia: _Reka_, tiếng Đức: _Sankt Veit am Flaum_ hoặc _Pflaum_ (cả lịch sử)) là cảng biển chính
**Gloster Meteor** là loại máy bay tiêm kích phản lực đầu tiên của Anh, và cũng là máy bay phản lực đầu tiên và duy nhất của quân Đồng minh hoạt động trong Chiến tranh