✨Tiếng Kunigami

Tiếng Kunigami

Tiếng Kunigami hay tiếng Bắc Okinawa (), là một ngôn ngữ Lưu Cầu ở phía Bắc đảo Okinawa ở quận Kunigami và thành phố Nago, còn được gọi là vùng Yanbaru, trong lịch sử là lãnh thổ của vương quốc Bắc Sơn.

Phương ngữ Nakijin thường được coi là đại diện của tiếng Kunigami, tương tự như phương ngữ Shuri-Naha của tiếng Trung Okinawa. Số lượng người bản ngữ thông thạo tiếng Kunigami không được biết đến. Do chính sách ngôn ngữ của Nhật Bản, thế hệ trẻ chủ yếu nói tiếng Nhật như ngôn ngữ đầu tiên của họ.

Vị trí

Ngoài phần phía bắc đảo Okinawa, tiếng Kunigami được nói trên các đảo nhỏ lân cận Ie, Tsuken và Kudaka.

Phạm vi và phân loại

Glottolog, theo Pellard (2009), phân loại tiếng Kunigami với tiếng Trung Okinawa là hai ngôn ngữ Okinawa. Ethnologue thêm Okinoerabu và Yoron; những ngôn ngữ này (cùng với tất cả các ngôn ngữ khác ở phía bắc quần đảo Ryukyu) được Glottolog phân loại là các ngôn ngữ Amami. Bản đồ các ngôn ngữ đang gặp nguy hiểm của UNESCO, theo sau Uemura (2003), bao gồm Okinoerabu và Yoron như các biến thể của tiếng Kunigami.

Thuật ngữ dân gian

Những người nói tiếng Kunigami có nhiều từ khác nhau để chỉ "ngôn ngữ", "phương ngữ" và "phong cách nói". Ví dụ, nhà ngôn ngữ học Nakasone Seizen (1907–1995) nói rằng phương ngữ của cộng đồng quê hương ông Yonamine, làng Nakijin có (các dạng từ tiếng Nhật chuẩn tương ứng trong ngoặc đơn): (kuchi), (kotoba) và (monoii). Ngôn ngữ của cộng đồng của chính mình được gọi là hay . Phương ngữ Yonamine là một phần của phương ngữ phía tây Nakijin được gọi là . Phần phía bắc Okinawa thường được gọi là Yanbaru và do đó ngôn ngữ của nó đôi khi được gọi là .

Âm vị học

Giống như hầu hết các ngôn ngữ Lưu Cầu ở phía bắc Trung Okinawa, tiếng Kunigami có một loạt các phụ âm "nhấn mạnh" hoặc "bằng". Trong khi các âm mũi và âm lượn thực sự được "ngậm", thì các âm tắc , trái ngược với các âm tắc . Tiếng Kunigami cũng đáng chú ý vì sự hiện diện của một âm vị tách biệt với âm vị được cho là nguồn gốc lịch sử của trong hầu hết các ngôn ngữ Nhật Bản-Lưu Cầu khác; trong tiếng Kunigami thay vào đó có hai nguồn khác nhau: , hoặc nói cách khác là chữ cái đầu bằng 0 trong một số môi trường điều hòa nhất định. Vì vậy, ví dụ, phương ngữ Nakijin của tiếng Kunigami có từ (ánh sáng, ngọn đèn, shōji), có nguồn gốc với từ tiếng Nhật (ánh sáng, ngọn đèn); dạng tiếng Kunigami được phân biệt với cùng nguồn gốc Nhật Bản của nó bằng âm đầu , bằng , và loại bỏ r trước i. Tiếng Kunigami cũng tạo ra sự khác biệt trong một số cặp từ nhất định, chẳng hạn như phương ngữ Nakijin (đám mây) và (con nhện), mà trong tiếng Nhật gần như đồng âm ( và ).

Hình thái học

Một điểm khác biệt đáng chú ý trong việc sử dụng một số dấu hiệu hình thái nhất định giữa tiếng Kunigami và tiếng Nhật tiêu chuẩn là việc sử dụng làm trạng từ trong tiếng Kunigami. Ví dụ: Phương ngữ Nakijin , tương đương với tiếng Nhật tiêu chuẩn toókú hanárete irú ("Nó ở rất xa"). Trong tiếng Nhật tiêu chuẩn, được sử dụng như trạng từ, trong khi được sử dụng riêng để lấy các danh từ trừu tượng về chất lượng và số lượng ("-ness") từ gốc tính từ.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tiếng Kunigami** hay **tiếng Bắc Okinawa** (), là một ngôn ngữ Lưu Cầu ở phía Bắc đảo Okinawa ở quận Kunigami và thành phố Nago, còn được gọi là vùng Yanbaru, trong lịch sử là
thumb|_Koohii shaapu_ ("quán cà phê, quán nước") trong tiếng Nhật Okinawa, từ "coffee shop" tiếng Anh, khác với _koohii shoppu_ trong tiếng Nhật chuẩn. là dạng tiếng Nhật mà ngày nay hầu hết cư dân
hay **tiếng Okinawa trung bộ**(, , , ) là một ngôn ngữ Lưu Cầu được nói chủ yếu ở nửa nam đảo Okinawa, cũng như những đảo xung quanh bao gồm Kerama, Kumejima, Tonaki, Aguni,
**Tàu tuần tra lớp Kunigami** (tiếng Nhật: くにがみ型巡視船 _kunigami gata junsen_) là lớp tàu tuần tra cao tốc cỡ lớn hiện đại của Cảnh sát Biển Nhật Bản. Hiện mới có 2 tàu đầu tiên
thumb|right|Vị trí quần đảo Amami thumb|Quần đảo Amami thumb|Bờ biển thành phố Amami, Amami Ōshima là một nhóm các đảo thuộc quần đảo Satsunan, một phần của quần đảo Nansei (hay Ryukyu). Quần đảo là
**Cụm phương ngữ Okinoerabu** ( _Shimamuni_), hay **Oki-no-Erabu**, là một cụm phương ngữ nói trên đảo Okinoerabu, tỉnh Kagoshima miền tây nam Nhật Bản. Đây là một ngôn ngữ trong nhóm Amami–Okinawa, thuộc ngữ hệ
(tiếng Kunigami: _Ii_) là một làng thuộc huyện Kunigami, tỉnh Okinawa, Nhật Bản. Làng nằm trên hòn đảo Iejima. Tính đến năm 2003, dân số của làng ước tính là 5.128 người và mật độ
là một bộ shounen manga mang đề tài bóng đá trên cộng đồng được viết bởi Kaneshiro Muneyuki và minh họa bởi Nomura Yūsuke. Bắt đầu từ tháng 8 năm 2018, bộ truyện được đăng
**Ngữ hệ Nhật Bản-Lưu Cầu** hay là một nhóm ngôn ngữ tập trung tại Nhật Bản và Quần đảo Lưu Cầu đã phát triển độc lập với các ngôn ngữ khác sau nhiều thế kỷ.
, gọi tắt là **Hải bảo** (海保: Kaiho), cũng được dịch trong tiếng Việt là **Tuần duyên Nhật Bản** hay **Cảnh sát biển Nhật Bản**, là lực lượng bảo vệ và thực hiện chức năng
| religion_year = 2018 | religion_ref = | regional_languages = | demonym = | ethnic_groups = | ethnic_groups_year = 2016 | ethnic_groups_ref = | capital = Tokyo (de facto) | largest_city = Tập tin:PrefSymbol-Tokyo.svg Tokyo
**Thượng Chân Vương** (chữ Hán: 尚真王; tiếng Nhật: ショーシンShō Shin, 1465 – 12 tháng 1, 1526) hay **Lưu Cầu Thượng Chân Vương** (琉球尚真王), là quốc vương thứ 3 thuộc Nhà Hậu Thượng của Vương quốc
nhỏ|Án ti **Án ti** hay **án tư** (tiếng Nhật: 按司 _aji_ hoặc _anji_) là người đứng đầu một lãnh địa trong lịch sử Lưu Cầu. Từ này dưới thời vương quốc Lưu Cầu được sử
là một làng thuộc huyện Kunigami, Okinawa, Nhật Bản. Đến năm 2013, dân số của làng này là 10.443 và mật độ là 200 người/km². Tổng diện tích là 50.77 km². Không giống các vùng khác