✨Thỏ Inaba

Thỏ Inaba

nhỏ|phải|Loài thỏ rừng Nhật Bản là nguyên tác cho hình tượng con thỏ Ibana Thỏ Inaba (tiếng Nhật Bản: 因幡の白兎/Inaba no Shirousagi?) là một con thỏ trong thần thoại Nhật Bản được xây dựng dựa trên các con thỏ rừng Nhật Bản, trong văn hóa Nhật Bản có thể dẫn chiếu đến hai huyền thoại khác nhau của Nhật Bản, cả hai đều từ tỉnh cổ Inaba, bây giờ phần đông của Tottori. Truyền thuyết thỏ Inaba thuộc denrai Izumo, hay truyền thống của những huyền thoại có nguồn gốc từ vùng Izumo. Thỏ Inaba là một phần thiết yếu của các huyền thoại của thần Shinto ōkuninushi.

Chú thỏ trong truyền thuyết là Lepus brachyurus, hay thỏ Nhật Bản, có thể là phân loài được tìm thấy trên quần đảo Oki được biết đến như Lepus brachyurus okiensis. Thỏ Nhật Bản dài khoảng 43 cm đến 54 cm chiều dài và nhỏ hơn nhiều so với thỏ phổ biến ở châu Âu. Thỏ Nhật Bản thường có màu nâu, nhưng có thể chuyển sang màu trắng trong mùa đông tại các khu vực có nhiều mùa khác nhau, chẳng hạn như ở khu vực Inaba.

Phiên bản Kojiki

Một phiên bản của câu chuyện của 'Chú thỏ vùng Inaba' được tìm thấy trong Kojiki, biên niên sử lâu đời nhất còn tồn tại ở Nhật Bản, có từ thế kỷ thứ 8 (711-712). Truyền thuyết xuất hiện ở phần đầu tiên trong ba phần của biên niên sử Kojiki là Kamitsumaki, còn được gọi là Jindai no Maki, hay "Tập về Thời đại các vị thần". Phần này của biên niên sử Kojiki kể lại những huyền thoại liên quan đến sự hình thành Nhật Bản trước khi sự ra đời của Hoàng đế Jimmu, Hoàng đế đầu tiên của Nhật Bản.

Trong phiên bản Kojiki, một chú thỏ đã lừa được các con cá mập (wanizame) để làm thành một cầu nối để đi từ đảo Oki đến mũi (Cape) Keta. Mũi Keta ngày nay được xác định cùng với Bờ biển Hakuto ở thành phố Tottori. Chú thỏ này đã thách những con cá mập xem 'băng đảng' (clan) của chúng hay của chú thỏ lớn hơn - Nghe vậy, những con cá mập xếp thành một hàng trên biển. Chú thỏ sau đó nhảy trên từng con một, vừa nhảy vừa đếm. Gần đến đích, chú thỏ kêu lên là chính chú đã lừa dối những con cá mập để sử dụng chúng như một cây cầu. Con cá mập cuối cùng tấn công chú thỏ, rứt lông của thỏ ra.

Thần Ōkuninushi và 80 anh em của mình đang đi du lịch qua vùng Inaba để cầu hôn (woo) công chúa Yakami của Inaba. Trong khi các anh em thần đang trên con đường đến thăm công chúa, chú thỏ bị thương chặn họ lại và yêu cầu giúp đỡ. Thay vì giúp thỏ, họ khuyên chú tắm ở biển và hong khô trong gió, thực ra là làm cho chú đau đớn hơn. Ngược lại, thần Ōkuninushi, không giống các anh của mình, đã khuyên thỏ để tắm trong nước ngọt từ cửa sông, và sau đó cuộn mình trong phấn của hoa đuôi mèo (cattail). Cơ thể của chú thỏ đã được "phục hồi trở lại trạng thái ban đầu", và sau khi hồi phục, lộ nguyên hình là một vị thần. Trong lòng biết ơn, thỏ nói với Ōkuninushi, người em út trong 81 anh em, rằng anh sẽ kết hôn với công chúa Yakami.

Truyền thuyết 'chú thỏ Inaba' nhấn mạnh sự từ bi của thần Ōkuninushi, người sau này được thờ tại Izumo-Taisha. Các học giả Nhật Bản từ lâu giải thích cuộc đấu tranh giữa thần Ōkuninushi và 80 người anh em phẫn nộ của mình như là một đại diện tượng trưng của nền văn minh và sự man rợ trong quá trình hình thành nhà nước Nhật Bản. Phiên bản 'chú thỏ vùng Inaba' trong biên niên sử Kojiki này giống với truyền thuyết tương tự ở Indonesia, Sri Lanka, và Ấn Độ.

Phiên bản Ise ga Naru

Từ xa xưa, khi Nữ thần Mặt trời (Amaterasu) và đoàn tùy tùng đi xung quanh ranh giới Yakami ở Inaba, họ đang tìm kiếm một nơi thích hợp cho cung điện tạm thời, thì đột nhiên một chú thỏ trắng xuất hiện. Chú thỏ cắn quần áo Nữ thần Amaterasu và đưa Thần đến một nơi thích hợp cho cung điện tạm thời dọc theo núi Nakayama và núi Reiseki. Khoảng hai giờ đi bộ, cùng với thỏ trắng, nhóm của Nữ thần Amaterasu đã đến một đồng bằng trên đỉnh núi, mà giờ đây được gọi là Ise ga naru. Sau đó, thỏ trắng biến mất. Địa điểm trong truyền thuyết này ở trong thị trấn Yazu, thành phố Tottori, tỉnh Tottori (bao gồm 2 vùng Inaba và Houki cổ xưa), nơi đền Hakuto Jinja thờ thỏ trắng.

Ngày xưa, tại đảo Oki có một chú trắng. Một hôm, thỏ ta muốn đi sang đất Inaba (ngày nay là khu vực phía Đông của tỉnh Tottori) liền nói với lũ cá voi đang bơi ở eo biển rằng chúng ta thử đếm xem, cá voi và thỏ, ai nhiều hơn và hãy nằm kề nhau để đếm, cá voi liền nằm kề sát bên nhau. Thế là thỏ ta cứ việc bước trên lưng cá voi để sang bờ bên kia. Nhưng sau đó thỏ bị đám thanh niên đã đánh lừa thỏ. Ngày càng đau đớn, thỏ ngồi bên bờ biển khóc lóc thảm thiết. Có một chàng trai đi tới. Chàng là em út của đám thanh niên đã đánh lừa thỏ trước đó. Vì phải mang theo tất cả đồ đạc của các anh, nên chàng bị đi chậm cách xa với các anh mình. Người em thấy thỏ ta ngồi khóc bèn hỏi đầu đuôi câu chuyện và giúp thỏ. Truyền thuyết nói rằng, chàng trai có tấm lòng nhân hậu ấy, sau này trở thành một trong những vị thần "Đại quốc chủ mệnh"- tức vì thần vĩ đại, xây dựng lên đất nước Nhật Bản.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|phải|Loài thỏ rừng Nhật Bản là nguyên tác cho hình tượng con thỏ Ibana **Thỏ Inaba** (tiếng Nhật Bản: 因幡の白兎/Inaba no Shirousagi?) là một con thỏ trong thần thoại Nhật Bản được xây dựng dựa
**Thỏ rừng Nhật Bản** (Danh pháp khoa học: _Lepus brachyurus_) là một loài thỏ có nguồn gốc từ Nhật Bản. Loài thỏ rừng Nhật Bản này được Coenraad Jacob Temminck mô tả năm 1845, chúng
là trò chơi chính thức thứ tám của loạt game bắn đạn cuộn màn hình dọc Touhou Project của Team Shanghai Alice và là trò chơi Touhou chính thứ ba được phát hành riêng cho
thường được biết đến với tên **_Shin Megami Tensei: Persona 4_** là phiên bản thứ năm của series Persona được phát triển và phát hành bởi Atlus dành cho hệ máy PlayStation 2. Series _Persona_
là một kỳ thủ shogi chuyên nghiệp đạt cấp độ Cửu đẳng người Nhật Bản. Hiện anh là kỳ thủ shogi số 1 Nhật Bản với việc đang sở hữu **7 trên tổng số 8
là một công ty kinh doanh hàng tiêu dùng điện tử và trò chơi điện tử đa quốc gia của Nhật Bản có trụ sở chính tại Kyoto. Công ty thành lập vào năm 1889
, là chức vụ cao cấp trong Mạc phủ Tokugawa. Đây là một hội đồng dưới quyền Shogun. _Rōjū_ được bổ nhiệm từ _fudai daimyō_ với lãnh địa trong khoảng 25,000 đến 50,000 _koku_. ##
thumb|gia hiệu của Gia tộc Toyotomi **Toyotomi Hideyoshi** (豊臣 秀吉, とよとみ ひでよし, Hán-Việt: _Phong Thần Tú Cát_) còn gọi là **Hashiba Hideyoshi** (羽柴 秀吉, はしば ひでよし, Hán-Việt: _Vũ Sài Tú Cát_) (26 tháng 3 năm
**Cuộc vây hãm thành Inabayama** (稻葉山城の戦い _Đạo Diệp Sơn thành chi chiến_?) là trận đánh cuối cùng trong chiến dịch đánh bại gia tộc Saito của Oda Nobunaga diễn ra vào năm 1567 tại lâu
là một trò chơi phiêu lưu hành động do PlatinumGames phát triển và Nintendo phát hành độc quyền cho hệ máy Nintendo Switch. Miyata Yusuke giữ vai trò đạo diễn, Nakao Yuji đồng sản xuất,
là một vị nữ quan Đại Áo. Là cháu ngoại của Inaba Yoshimichi, bà xuất thân từ một gia tộc samurai nổi tiếng của Nhật Bản vào thời kì Azuchi- Momoyama và thời kì Edo.
là vị Tướng quân thứ 4 của Mạc phủ Tokugawa tại Nhật Bản. Ông là con trai thứ hai, nhưng được xem như con trai trưởng của Tokugawa Iemitsu, và là cháu nội của Tokugawa
là một trò chơi điện tử chặt và chém phiêu lưu hành động do PlatinumGames phát triển và Nintendo phát hành trên Wii U và Nintendo Switch. Đây là phần tiếp theo của _Bayonetta_ năm
là một doanh nhân Nhật Bản. Ông là chủ tịch thứ ba của Nintendo, gia nhập công ty vào năm 1949 cho đến khi từ chức vào ngày 31 tháng 5 năm 2002, được kế
, hay còn có tên là một nghệ sĩ Nhật Bản. Ông được công nhận rộng rãi là bậc thầy vĩ đại cuối cùng của thể loại _tranh in mộc bản_ (woodblock printing) ở ukiyo-e.
nhỏ|400x400px| Các kỳ thủ chuyên nghiệp [[Habu Yoshiharu Danh Nhân (thứ nhất từ trái sang) và Watanabe Akira Nhị quán (thứ tư từ trái sang) tại trận Chung kết Giải vô địch Toàn Nhật Bản
thumb|gia huy của Gia tộc Oda (emblem) là một daimyo trong thời kỳ Chiến Quốc của lịch sử Nhật Bản. Ông là người có công lớn trong việc thống nhất Nhật Bản, chấm dứt thời
nhỏ|325x325px|Từ trái sang:
_hàng trước_: [[Doraemon (nhân vật)|Doraemon, Dorami
_hàng giữa_: Dekisugi, Shizuka, Nobita, Jaian, Suneo, Jaiko
_hàng sau_: mẹ Nobita, ba Nobita]] **_Doraemon_** nguyên gốc là một series manga khoa học
Đây là danh sách về các nhân vật trong tác phẩm _Urusei Yatsura_ của Takahashi Rumiko. Bộ truyện tranh _Urusei Yatsura_ có dàn nhân vật đông đảo do Rumiko Takahashi tạo ra. Kể về câu
nhỏ|203x203px|Tranh khắc họa Ushi-oni, từ cuốn [[Bakemono no e, Đại học Brigham Young .]] , còn gọi là **gyūki**, là một yêu quái trong văn hóa dân gian miền Tây của Nhật Bản . Có
**Langrisser V** (ラングリッサーV) The End of Legend là một hậu bản của Langrisser IV trong series Langrisser của hãng Masaya. Phiên bản thứ năm này được phát triển bởi CareerSoft, nhóm phát triển thuộc Masaya
**Mạc phủ Tokugawa** (Tiếng Nhật: 徳川幕府, _Tokugawa bakufu_; Hán Việt: _Đức Xuyên Mạc phủ_), hay còn gọi là **Mạc phủ Edo** (江戸幕府, _Giang Hộ Mạc phủ_), là chính quyền Mạc phủ ở Nhật Bản do
là một bộ truyện tranh Nhật Bản được viết và minh họa bởi Hiroya Oku. Gantz kể về câu truyện của Kei Kurono và Masaru Kato, hai nhân vật này đã chết tại một
**Hậu cung** (tiếng Nhật: **大奥**; _Ōoku_; Đại Áo) là một series phim truyền hình Nhật Bản được sản xuất bởi Fuji Television Network, Inc. Câu chuyện trong phim lấy bối cảnh ở thời kỳ Mạc
**_Lum_**, còn được biết ở Nhật Bản với tên gọi là bộ manga của Takahashi Rumiko lần đầu sáng tác vào năm 1978. Tác phẩm này sau đó được chuyển thể thành nhiều dạng anime
sinh ngày 27 tháng 9, 1970 (Chiêu Hòa thứ 45) tại TP Tokorozawa, tỉnh Saitama là một kỳ thủ shogi chuyên nghiệp đạt cấp độ Cửu đẳng người Nhật Bản, đồng thời là một kỳ
, hay còn gọi là **"Miêu tặc" Nami**, là một nhân vật hư cấu trong loạt tác phẩm _One Piece_ do Oda Eiichiro sáng tác. Cô được xây dựng dựa trên Ann và Silk –
là một bộ truyện tranh seinen của Nhật Bản được viết và minh họa bởi Minori Inaba. Tác phẩm được xuất bản bởi Shueisha, đăng trên tạp chí Weekly Young Jump từ ngày 15 tháng
thumb|Người thứ hai từ bên phải là Matsudaira Tarō. Những người khác gồm [[Ōzeki Masuhiro, Katsu Kaishū, Inaba Masami, Ishikawa Shigetaka, Robert B. Van Valkenburgh (Công sứ Mỹ), Ezure Akinori (Ngoại quốc phụng hành).]] là