là vị Thiên hoàng thứ 123 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ ngày 30 tháng 7 năm 1912, tới khi qua đời năm 1926.
Tên húy của Thiên hoàng Đại Chính là Yoshihito (嘉仁, Gia Nhân). Theo truyền thống Nhật Bản, một đương kim Thiên hoàng không có tên, và chỉ được gọi là hoặc . Ông chỉ đặt một niên hiệu trong suốt triều đại mình, và khi ông qua đời niên hiệu này cũng trở thành thụy hiệu của ông, theo một thông lệ bắt đầu từ năm 1912. Là vị Thiên hoàng trong Thời kỳ Đại Chính, ngày nay ông được biết đến với tên gọi Đại Chính Thiên hoàng.
Dù ở bên ngoài nước Nhật thỉnh thoảng ông được gọi là Yoshihito hay Nhật hoàng Yoshihito, ở Nhật Bản những cố Thiên hoàng chỉ được nói đến bằng thụy hiệu của họ. Điều này cũng giống như các Giáo hoàng thường đặt tông hiệu mới khi lên ngôi, nhưng ngoài là thành viên trong Hoàng gia, người nào nói tên thật của Thiên hoàng Nhật Bản sẽ bị xem là phạm húy.
Ông là một vị vua yếu đuối, ở ngôi trong suốt thời gian Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918). Nhật Bản có tham chiến và đoạt được thuộc địa của Đế chế Đức ở Trung Quốc, gia tăng uy thế của đất nước. Chỉ mới ba tuần sau khi sinh, Yoshihito đã mắc phải chứng viêm màng não và điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của ông sau này. (Đã có lời đồn rằng Yoshihito bị nhiễm độc chì do người vú nuôi của ông sử dụng các mỹ phẩm có nguồn gốc từ chì.) Cũng theo thông lệ, Yoshihito được giao cho Công tước Nakayama Tadayasu nuôi dưỡng cho đến khi ông lên bảy tuổi. Trước đó, Công tước Nakayama cũng đã nuôi dạy Thiên hoàng Minh Trị giống như vậy.
Từ tháng 3 năm 1885, Minh cung Thân vương Yoshihito chuyển đến Biệt cung Thanh Sơn, nơi ông được các gia sư dạy đọc, viết, làm toán và đạo đức vào mỗi buổi sáng. Đến chiều thì ông được các thầy học dạy thể dục thể thao. Tuy nhiên tiến độ học tập của vị Thân vương rất chậm do sức khỏe yếu kém cùng với những cơn sốt liên miên. Kề từ năm 1886 trở đi Yoshihito theo học trong một lớp học mang tên "Ngôn ngữ giáo dục" (Gogakumonsho) trong Thanh Sơn cung, gồm 15-20 học sinh là con em của những gia đình Hoa tộc cấp cao và của các vương gia.. Tuy nhiên, Thái tử đã bị tiêm nhiễm thái quá văn hóa phương Tây, thậm chí ông có một thói quen xấu là chêm tiếng Pháp vào câu nói của mình. Điều này khiến vua cha Minh Trị rất bực tức..
Tháng Mười năm 1898, Thái tử tổ chức một chuyến vi hành, bắt đầu từ Ngự dụng để của Hoàng gia tại Numazu đến Kobe, Hiroshima và Etajima, thăm những cơ sở của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Năm sau, ông lại vi hành đến đảo Kyūshū (Cửu Châu), viếng thăm các công sở, trường học và nhà máy (ví dụ Nhà máy sắt thép Yawata ở Fukuoka và các xưởng đóng tàu của Mitsubishi ở Nagasaki).
Năm 1902, Hoàng thái tử Yoshihito tiếp tục các chuyến vi hành nhằm nghiên cứu địa lý và văn hóa Nhật Bản; lần này ông chủ yếu thăm thú hòn đảo chính Honshū (Bản Châu). Trong chuyến đi này ông đã đến viếng ngôi chùa nổi tiếng Thiện Quang tự (善光寺, Zenkō-ji) ở Nagano. Cũng trong thời gian này quan hệ giữa hai đế quốc Nga và Nhật trở nên căng thẳng, vì vậy năm ông được đưa vào quân ngũ với cấp hàm đại tá trong Lục quân Đế quốc Nhật Bản và là hạm trưởng trong Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Dĩ nhiên chức vụ của ông chỉ mang ý nghĩa tượng trưng và tinh thần, nhưng trong thời gian tại ngũ ông đã đi thị sát các cơ sở quân sự tại Wakayama, Ehime, Kagawa và Okayama trong cùng năm 1903.
Tháng Mười năm 1907, Thái tử đến thăm Triều Tiên cùng với Đô đốc Tōgō Heihachirō, Tướng Katsura Tarō và Thân vương Taruhito. Đây là lần đầu tiên Hoàng thái tử của Nhật Bản đi ra nước ngoài. Sau đó, Thái tử Yoshihito bắt đầu học tiếng Triều Tiên, dù cho đến cuối đời ông cũng không thật sự giỏi ngôn ngữ này.
Kết hôn và gia đình
Ngày 10 tháng 5 năm 1900, Thái tử Yoshihito kết hôn với cô thiếu nữ Kujō Sadako 15 tuổi (về sau trở thành Hoàng hậu Trinh Minh), con gái của Công tước Kujō Michitaka, tộc trưởng của năm nhánh chính của gia tộc Fujiwara. Sadako được Thiên hoàng Minh Trị "chấm" vì cô là một người thông minh, phát âm tốt, phẩm hạnh tốt và tâm tính hiền lành, dịu dàng; điều này tỏ ra phù hợp để bù đắp cho Thái tử ở những lĩnh vực ông yếu kém. Trái với vua cha Minh Trị vốn có hình ảnh được phổ biến sâu rộng khắp đất nước, Thiên hoàng Đại Chính bị các triều thần "nhốt", không cho ông xuất hiện trước công chúng. Rõ ràng, vị tân Thiên hoàng mắc phải nhiều tật bệnh liên quan đến thần kinh và chúng đã khiến ông khó có thể đảm đương công việc giao tiếp với công chúng. Trong một buổi họp Nghị viện Nhật Bản năm 1913, Thiên hoàng Đại Chính đã cuộn tờ diễn văn của mình lại thành một cái ống nhòm rồi dùng nó để nhìn lung tung khắp phòng họp. Nhiều người cho rằng đây là triệu chứng của bệnh thần kinh của Đại Chính Thiên hoàng; tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng Thiên hoàng đang giám sát buổi họp xem có gì bất thường hay trục trặc không, chính những khiếm khuyết về thể trạng của ông đã khiến cho Thiên hoàng không thể làm việc đó một cách bình thường.
Yếu đuối, nói ngọng, kém năng lực và tính lập dị của Thiên hoàng Đại Chính dần dần dẫn đến thái độ khi quân và bất kính của triều thần đối vời Thiên hoàng. Về sau, khi sức khỏe của ông ngày một suy giảm, Thiên hoàng càng lúc càng rời xa việc chính sự; và việc các nguyên lão, Nội Đại thần và các quan chức trong Cung Nội sảnh dần dần nắm lấy thực quyền và khống chế lấy Thiên hoàng. Tệ hơn là những việc như thế này trở nên phổ biến trong dư luận.
Vào ngày 29 tháng 8 năm 1914, dựa vào những điều khoản trong Hiệp ước Anh - Nhật năm 1902, nước Nhật tuyên chiến với Đế chế Đức trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất. Theo lệnh của Triều đình Đại Chính, quân Nhật vây hãm những cảng Trung Quốc nằm dưới quyền kiểm soát của người Đức, và xâm chiếm các đảo thuộc Đức ở Thái Bình Dương với sự hỗ trợ của quân Anh. Nhật Bản còn mở rộng quyền kiểm soát của mình ở Mãn Châu và cố chiếm Siberia năm 1918.
Sau năm 1919, Thiên hoàng Đại Chính không còn khả năng tham gia chính sự nữa, mọi hoạt động của một nguyên thủ quốc gia được giao hết cho Hoàng thái tử Hirohito (Dụ Nhân). Thái tử đã được phong làm Nhiếp chính quan bạch (摂政関白, Sesshōkampaku) vào ngày 25 tháng 11 năm 1921.
Đại Động đất tại Kantō năm 1923
Cuộc sống xa lánh và tĩnh lặng của Thiên hoàng Đại Chính không chịu nhiều ảnh hưởng bởi trận Đại động đất Kantō năm 1923, thật ra một tuần trước khi tai họa xảy ra thì Thiên hoàng đã lên tàu hỏa tới cung điện mùa hè của Hoàng gia ở Nikko. Nhiếp chính quan bạch Hirohito vẫn ở lại cung điện trong thủ đô Tōkyō - tâm chấn của trận động đất - nhưng may mắn là Hirohito không hề hấn gì. Thiên hoàng đã dùng bồ câu đưa thư để liên lạc với thủ đô và tiếp nhận thông tin về thảm họa cùng với thương vong do trận động đất gây ra.
"Vị Thiên hoàng đầu tiên của Tōkyō"
thumb|Tang lễ của Hoàng đế Taisho ở Tokyo
Đầu tháng 12 năm 1926, mọi người được thông báo là Thiên hoàng mắc phải chứng viêm phổi. Không lâu sau đó, Thiên hoàng Đại Chính qua đời vào 1 giờ 25 phút sáng ngày 25 tháng 12 năm 1926 tại Ngự dụng để Hayama ở vịnh Sagami, huyện Kanagawa do nhồi máu cơ tim, thụy hiệu là Đại Chính Thiên hoàng.
Ông được gọi là "vị Thiên hoàng đầu tiên của Tōkyō" vì trái với các vị tiên đế, phần lớn cuộc đời của ông trải qua ở thành phố này và lăng mộ của ông được xây dựng cũng ở Tōkyō. Năm xưa, vua cha Minh Trị của ông được sinh ra và nuôi nấng ở cố đô Kyōto; và dù về sau Thiên hoàng Minh Trị sống và qua đời ở Tōkyō, lăng của vị Thiên hoàng này tọa lạc ở ngoại ô Kyōto, gần với lăng của các vị tiên đế.
Danh dự
- Huy chương Bảo Quan (Nhật Bản)
- Huy chương Mặt trời mọc (Nhật Bản)
- Huân chương hiệp sĩ Garter (Vương quốc Anh)
- Huy chương Thánh Hubert (Bayern)
- Huy chương Đại Bàng Đen (Phổ), hạng Hiệp sĩ
- Huy chương Hoàng Vị (Nhật Bản)
- Huy chương Con Voi (Đan Mạch)
- Huy chương Hiệp sĩ (Tây Ban Nha)
- Huy chương Santissima Annunziata (Vương quốc Ý)
- Huy chương Đại Bàng Trắng (Ba Lan)
- Huy chương Tháng Olav của Hoàng gia Na Uy (Na Uy)
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
là vị Thiên hoàng thứ 123 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ ngày 30 tháng 7 năm 1912, tới khi qua đời năm 1926. Tên húy của Thiên
còn gọi là hay là tước hiệu của người được tôn là Hoàng đế ở Nhật Bản. Nhiều sách báo ở Việt Nam gọi là _Nhật Hoàng_ (日皇), giới truyền thông Anh ngữ gọi người
nhỏ| Lễ đăng cơ của [[Thiên hoàng Taisho tại Hoàng cung Kyoto năm 1915. ]] nhỏ| [[Hirohito|Thiên hoàng Shōwa tại lễ lên ngôi năm 1928. ]] phải|nhỏ| [[Akihito|Nhật hoàng Akihito đã mặc sokutai trong buổi
thumb|Tranh vẽ các tiểu hoàng nữ của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng nữ** (chữ Hán: 皇女; tiếng Anh: _Imperial Princess_), cũng gọi **Đế nữ** (帝女), là con gái do Hậu phi sinh ra của Hoàng đế
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
thumb|Toàn cảnh Hoàng cung ở Tokyo thumb|Ảnh chụp từ trên cao của Hoàng cung Nhật Bản năm 2019 là nơi cư trú chính của Thiên hoàng Nhật Bản. Khuôn viên Hoàng cung rộng lớn như
, khuê danh , là hoàng hậu của Đại Chính Thiên hoàng và là sinh mẫu của Chiêu Hòa Thiên hoàng. Thụy hiệu của bà là Trinh Minh (Teimei), có nghĩa là "sự bất biến
thumb|Nhật Bản chiếm đóng thành phố [[Khabarovsk của Nga trong Nội chiến Nga, 1919]] là một thời kỳ trong lịch sử Nhật Bản từ ngày 30 tháng 7 năm 1912 đến 25 tháng 12 năm
, tên khai sinh là một thành viên của Hoàng gia Nhật Bản, vợ của Thân vương Nobuhito – con trai thứ ba của Thiên hoàng Taishō và Hoàng hậu Teimei, bà cũng là em
, còn được gọi là **Sawarabi no Tsubone** (Tảo Bích Cục), **Sawarabi no Tenji** (Tảo Bích Điển thị) hoặc **Liễu Nguyên Nhị vị cục** (柳原二位局) (26 tháng 6 năm 1859 - 16 tháng 10 năm
Đế quốc Nhật Bản. Cho tới trước khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thuộc địa của Nhật tại vùng Đông Á đã tăng gấp gần **5 lần** diện tích quốc gia]] là
**Lịch sử quân sự Nhật Bản** mô tả cuộc chiến tranh phong kiến kéo dài nhằm tiến tới việc ổn định trong nước, sau đó cùng với việc viễn chinh ra bên ngoài cho tới
, còn gọi là **Thân vương Mikasa** là một thành viên của Hoàng gia Nhật Bản. Ông là con trai thứ tư và là con út của Thiên hoàng Đại Chính và Hoàng hậu Trinh
, sinh 25 tháng 6 năm 1902 – mất 4 tháng 1 năm 1953, còn được gọi tắt là **Thân vương Yasuhito,** hay **Thân vương Chichibu** là con trai thứ hai của Thiên hoàng Đại
,hay còn gọi là **Thân vương Takamatsu** là con trai thứ ba của Thiên hoàng Đại Chính và Hoàng hậu Trinh Minh và là em trai của Thiên hoàng Chiêu Hòa. Ông trở thành người
(khuê danh ; còn gọi Thân vương phi Mikasa, 4 tháng 6 năm 1923 - 15 tháng 11 năm 2024), là thành viên của Hoàng gia Nhật Bản và là góa phụ của Thân vương
**Shiki 11** (十一年式軽機関銃, Jyūichinen-shiki Kei-kikanjū) là súng máy hạng nhẹ được quân đội Hoàng gia Nhật Bản sử dụng trong các cuộc chiến trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến lớn và suốt chiến tranh
thumb|gia huy của Gia tộc Oda (emblem) là một daimyo trong thời kỳ Chiến Quốc của lịch sử Nhật Bản. Ông là người có công lớn trong việc thống nhất Nhật Bản, chấm dứt thời
**Văn học Nhật Bản** là một trong những nền văn học dân tộc lâu đời nhất và giàu có nhất thế giới nảy sinh trong môi trường nhân dân rộng lớn từ thuở bình minh
Hình nhân mặc kiểu đồng phục của Shinsengumi (còn được gọi là _Tân Đảng_) là lực lượng cảnh sát được thành lập để trấn áp các thế lực chống đối Mạc Phủ Tokugawa, và giữ
nhỏ|phải|Quân đội Đế quốc Nhật Bản năm 1900. Màu đồng phục phải là màu xanh đậm chứ không phải màu xám xanh như trong hình in mờ này. (kanji cổ: 大日本帝國陸軍, kanji mới: 大日本帝国陸軍; romaji:
**Quân hàm** là hệ thống cấp bậc trong một quân đội. Ở một số quốc gia, hệ thống cấp bậc này còn được áp dụng trong ngành cảnh sát hoặc một số tổ chức dân
do cuộc nội chiến diễn ra vào năm 1160 tương ứng với niên hiệu _Heiji_ (平治 Bình Trị) nên còn được gọi **Loạn Heiji**, **Bình Trị Loạn**. Cuộc nội chiến ngắn giữa các phe đối
**Chính quyền thời kỳ Minh Trị Nhật Bản** (1868-1911) là một sự tiến triển về thể chế và cấu trúc từ trật tự phong kiến của Mạc phủ Tokugawa đến chế độ quân chủ lập
, tên khác là xây dựng năm 1457 bởi Ota Dōkan; là một thành trì nằm trên địa đài thị trấn Kōji (麹町; Kōji-machi) thuộc quận Chiyoda ở Tokyo (Nhật Bản), thời đó được gọi
**Nguyên soái** () là một quân hàm trong quân đội Đế quốc Nhật Bản từ năm 1872 đến năm 1873. Sau thời kỳ trên, quân hàm này bị bãi bỏ. Đến năm 1898, Phủ Nguyên
**Anh Thân Vương**, **Thái tử Ý Mẫn** hay **Thái tử Lý Ngân** (phiên âm: Yi Un, Yi Eun, Lee Eun hoặc Un Yi, sinh ngày – mất ngày ), là người đứng đầu thứ 28
(7 tháng 7 năm 1891 tại Nagano, Nhật Bản– 27 tháng 3 năm 1945 tại Iwo Jima, Nhật Bản) là vị tướng người Nhật Bản, nổi tiếng qua trận Iwo Jima trong Thế chiến thứ
là trận siêu động đất xảy ra tại vùng Kantō của Nhật Bản. Trận động đất có cường độ 7.9 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 23 km. Động đất mạnh dẫn tới hàng loạt
**Đại tướng** (Tiếng Anh: _General_) là tướng lĩnh cấp cao, là bậc sĩ quan cao nhất trong lực lượng vũ trang chính quy của nhiều quốc gia. Ở một số quốc gia, có quy mô
**Huyền Trang** (chữ Hán: 玄奘; bính âm: _Xuán Zàng_; khoảng 602–664), hay **Huyền Tráng**, tục danh **Trần Huy** (陳禕), cũng thường được gọi là **Đường Tam Tạng** (唐三藏) hay **Đường Tăng** (唐僧), là một cao
, dịch là **_Chiến đội Ma pháp Magiranger_** hay **_Chiến đội Phép thuật Magiranger_** là bộ phim Super Sentai thứ 29 của Toei Company. Đây là bộ phim Super Sentai cuối cùng được sản xuất
**Đại tạng kinh** (, _Dàzàngjīng_; , _Daejanggyeong_; , _Daizōkyō_), còn được gọi tắt là **Tạng kinh** (藏經) hay **Nhất thiết kinh** (一切經), là danh xưng dùng để chỉ các tổng tập Kinh điển Phật giáo
là loạt manga Nhật Bản do Miura Kentaro lên ý tưởng và minh họa. Bối cảnh trong _Berserk_ là một thế giới kỳ ảo đen tối lấy cảm hứng từ châu Âu thời Trung Cổ.
là loạt manga do Yukimura Makoto sáng tác và minh hoạ. Được đăng trên tạp chí _Weekly Shōnen Magazine_ sau đó được chuyển qua tạp chí _Weekly Afternoon_. Tính tới tháng 6 năm 2023, các
**Đại Phật đỉnh thủ-lăng-nghiêm kinh** (sa. _Śūraṃgama-samādhi-sūtra_; zh. 大佛頂首楞嚴經 Đại Phật đỉnh thủ-lăng-nghiêm kinh), hoặc **Lăng-nghiêm kinh** (楞嚴經), hay còn được gọi là **Trung Ấn Độ Na-lan-đà Đại Đạo tràng Kinh** (中印度那爛陀大道場經), đã được tất
**_Đại chiến Titan_**, cũng được biết tới với tựa bản tiếng Anh **_Attack on Titan_** và tên gốc tiếng Nhật là một bộ manga Nhật Bản do Isayama Hajime sáng tác. Tác phẩm đặt trong
nhỏ|250x250px|Theo [[Mahavamsa, Đại bảo tháp ở Anuradhapura, Sri Lanka (khoảng 140 BCE).]] nhỏ|[[Tượng phật Avukana từ thế kỷ thứ 5.]] nhỏ| Bức tượng bằng đồng mạ vàng của [[Bồ Tát|Bồ tát Tara, từ thời Anuradhapura
là một manga Yonkoma hài hước lãng mạn Nhật Bản được viết và minh họa bởi Tsubaki Izumi. Những chương của manga được đưa lên _Gangan Online_, và được xuất bản dưới dạng sách và
là một bộ manga Nhật Bản được viết và vẽ minh họa bởi Ichikawa Haruko và bắt đầu được xuất bản từ năm 2012 đến nay. Truyện được xuất bản bởi Kodansha trong tạp chí
là sêri manga Nhật Bản được viết và minh họa bởi tác giả Ōima Yoshitoki. Được sêri hóa trong tạp chí _Weekly Shōnen Magazine_ từ ngày 9 tháng 11 năm 2016 đến tháng 6 năm
Khoa học viễn tưởng là một thể loại quan trọng của văn học Nhật Bản hiện đại, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các khía cạnh của văn hóa đại chúng Nhật Bản đương đại,
là một bộ light novel Nhật Bản của tác giả Sigusawa Keiichi (時雨沢 恵一) và minh họa của Kuroboshi Kōhaku (黒星 紅白). Series lúc đầu được xuất bản vào 17 tháng 3 năm 2000 trong
là một công ty kinh doanh hàng tiêu dùng điện tử và trò chơi điện tử đa quốc gia của Nhật Bản có trụ sở chính tại Kyoto. Công ty thành lập vào năm 1889
hay **_Nichijou_** là manga hài hước Nhật Bản do sáng tác và minh họa. Loạt manga bắt đầu từng số phát hành vào tháng 12 năm 2006 của tạp chí _Shōnen Ace_ thuộc Kadokawa Shoten,
là một bộ truyện tranh Nhật Bản được viết và minh họa bởi Itagaki Paru. Nó đã được đăng theo kỳ trong Weekly Shōnen Champion kể từ tháng 9 năm 2016, với các chương của
là một hình thức đấu vật tiếp xúc lẫn nhau mang tính cạnh tranh trong đó một rikishi (đô vật) cố gắng đẩy đối thủ của mình ra khỏi vòng tròn thi đấu (dohyō) hoặc
nhỏ|Tôn tượng Phật A-súc **Phật Bất Động** hay **Phật A-súc-bệ** (tiếng Phạn: अक्षोभ्य, IAST: Akṣobhya, chữ Hán: 阿閦如来) là một vị Phật được tôn thờ trong Đại thừa và Kim Cang thừa. Phật A-súc là
**Tư tưởng Juche** (Hangul: 주체); (phát âm trong tiếng Triều Tiên) (主體: âm Hán Việt: Chủ thể) hay **Tư tưởng Kim Nhật Thành** là một hệ tư tưởng chính thức của Nhà nước Cộng hòa
là một bộ manga của mangaka Midorikawa Yuki, xuất bản tại Nhật Bản bởi Hakusensha. Nhà xuất bản Trẻ mua bản quyền và phát hành manga bằng tiếng Việt tại Việt Nam với nhan đề