✨Thích Trí Quang
Thích Trí Quang (21 tháng 12 năm 1923 — 8 tháng 11 năm 2019) là một nhà sư Phật giáo Đại thừa người Việt Nam, được biết đến với vai trò lãnh đạo quần chúng Phật tử miền Nam Việt Nam trong Biến cố Phật giáo 1963, và trong các cuộc biểu tình của Phật tử chống lại chế độ quân sự miền Nam Việt Nam cho đến khi Biến động Miền Trung năm 1966 bị dẹp tan.
Chiến dịch năm 1963 của Thích Trí Quang kêu gọi tín đồ noi gương Mahatma Gandhi, đã chứng kiến các cuộc biểu tình quy mô lớn chống lại chính phủ Tổng thống Ngô Đình Diệm, mà nguyên nhân chính xuất phát từ anh trai Diệm là Tổng giám mục Công giáo La Mã Huế, Pierre Martin Ngô Đình Thục, đã ngược đãi và đàn áp đa số Phật tử. Việc đàn áp dân quyền Phật giáo và dẹp loạn các cuộc biểu tình, cùng với các vụ tự thiêu của 5 nhà sư đã châm ngòi cho cuộc đảo chính năm 1963 do Mỹ hậu thuẫn trong đó Diệm và Nhu bị lật đổ và ám sát.
Kể từ năm 1964, Thích Trí Quang đi đầu trong các cuộc biểu tình Phật giáo chống lại chính quyền của Tướng Nguyễn Khánh, cáo buộc vị tướng này độc tài và không đủ sức loại bỏ những thành phần ủng hộ Diệm khỏi các vị trí quyền lực, và sau đó là cuộc biểu tình chống lại Thống chế Không quân Nguyễn Cao Kỳ, người đã sa thải tướng ủng hộ Phật giáo Nguyễn Chánh Thi khỏi các chức vụ của Thi tại miền Trung Việt Nam, một thành trì của Phật giáo. Tình trạng bất ổn dân sự kéo dài trong ba tháng cho đến khi Kỳ đánh dẹp các nhà hoạt động Phật giáo, chấm dứt ảnh hưởng của họ trên chính trường Nam Việt Nam. Thích Trí Quang bị quản thúc tại gia và dành phần lớn thời gian cuối đời để viết và dịch kinh điển Phật giáo.
Đầu đời
Hòa thượng Thích Trí Quang tên khai sinh là Phạm Quang, tên tục là Do, sinh ngày 21 tháng 12 năm 1923 tại làng Diêm Điền, phía tây sông Nhật Lệ, thành phố Đồng Hới tỉnh Quảng Bình, miền Trung Việt Nam. Ông là con thứ tư trong gia đình có 6 anh em trai, hai anh đầu khác mẹ. Mẹ ông là hội viên Hội Tiên Thiên Thánh Giáo (hội những người lên đồng). Cha ông bán thế xuất gia với ngài Thích Đắc Quang, pháp danh Hồng Nhật. Khi ông được 6 tuổi, bố mẹ cho ông học chữ Hán và chữ quốc ngữ. Sau đó ông được gửi đi tu học tại Chùa Bảo Quốc, Huế với các Hòa thượng Thích Trí Độ, Thích Mật Thể, v.v là những vị sáng lập Phong trào Chấn hưng Phật giáo tại miền Trung Việt Nam.
Xuất gia năm 1936, bổn sư là Hoà thượng Thích Trí Độ, Chủ tịch Hội Phật Giáo Cứu Quốc. Năm 1937, ông vào Huế theo học chương trình đào tạo tăng sĩ và hoàn tất chương trình vào năm 1944. Năm sau, ông thọ giới Tỳ kheo. Mùa hè năm 1946, ông được mời theo Hòa thượng Thích Trí Độ ra Hà Nội thành lập Phật học viện tại chùa Quán sứ. Cuối năm 1946, ông trở về Quảng Bình thọ tang cha, sau đó ra Huế tu tại chùa Từ Đàm. Ở Huế vì hoạt động trong Hội Phật giáo Cứu quốc, ông bị chính quyền Pháp thời ấy bắt giam và bị quản thúc sau khi được trả tự do. Đầu năm 1947, Pháp chiếm Quảng Bình, ông vào chiến khu chống Pháp, phụ trách quận hội của Liên Việt.
Vụ xả súng ở Huế
thumb|right|Đài kỉ niệm các nạn nhân vụ xả súng tại Huế vào ngày lễ Phật đản năm 1963. Năm 1963, ngày lễ Phật đản (ngày sinh của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni) rơi vào ngày 8 tháng 5. Các tín đồ Phật giáo Huế đã chuẩn bị long trọng cho ngày lễ này, trong đó có việc treo cờ Phật giáo. Nhưng chính phủ lại viện dẫn một quy định hiếm khi được thực thi là cấm treo cờ tôn giáo. Điều này trái ngược với những gì diễn ra tại một sự kiện Công giáo nhân kỷ niệm 5 năm Ngô Đình Thục làm Tổng giám mục Huế chưa đầy một tháng trước. Việc áp dụng đạo luật này đã gây ra sự phẫn nộ trong giới Phật tử trước thềm ngày lễ quan trọng nhất năm, vì một tuần trước những người theo Công giáo được phép treo cờ Vatican nhân đại lễ kỷ niệm 25 năm ngày tấn phong anh trai Diệm là Ngô Đình Thục làm Tổng giám mục Huế. Chính quyền Diệm còn lập ngân sách thông qua một ủy ban quốc gia yêu cầu người dân quyên góp tiền cho lễ kỷ niệm của Thục. Các Phật tử bị buộc phải ủng hộ 1 tháng lương tiền công của họ nhân đại lễ này.
Vào ngày lễ Phật đản, hàng ngàn Phật tử bất chấp lệnh cấm vẫn treo cờ. Trí Quang phát biểu trước đám đông và kêu gọi người dân đứng lên chống lại sự kỳ thị của chính quyền với Phật giáo. Ông kêu gọi các Phật tử có mặt tại đài phát thanh chính phủ vào buổi tối để tham gia biểu tình. Căng thẳng gia tăng suốt ngày hôm sau khi những người biểu tình hô vang và giơ cao những khẩu hiệu chống chính phủ cùng số người tham gia ngày càng đông. Họ mong đợi nghe bài diễn văn mừng ngày Phật đản của Thích Trí Quang, nhưng bài diễn văn đã bị cơ quan kiểm duyệt của chính phủ rút khỏi chương trình phát sóng. Quân đội được điều động tới nhằm giải tán người biểu tình, sử dụng vòi rồng và nã đạn thẳng vào đám đông, khiến 9 người chết và 4 người khác bị thương nặng. Thích Trí Quang trong suốt đêm đi khắp nơi trên đường phố Huế, sử dụng loa phát thanh tố cáo chính quyền tàn sát tín đồ. Sau đó ông kêu gọi Phật tử tham dự lễ cầu siêu cho các nạn nhân thiệt mạng trong vụ xả súng ở Huế dự kiến tổ chức vào ngày 10 tháng 5. Trước cảnh tượng xúc động như vậy đã thu hút hàng nghìn khán giả tham dự và gây áp lực lên chính quyền Diệm trong việc ban hành các cải cách, khiến chính phủ phải ban bố lệnh giới nghiêm và điều động tất cả các nhân viên vũ trang làm nhiệm vụ suốt ngày đêm để "ngăn chặn sự trà trộn của Việt Cộng". Cuộc biểu tình kết thúc khi Thích Trí Quang thuyết phục người biểu tình hạ cờ cùng khẩu hiệu và tuân theo lệnh giới nghiêm 9 giờ tối.
Thích Trí Quang công bố một bản Tuyên ngôn gồm 5 điểm là yêu cầu tự do treo cờ tôn giáo, bình đẳng tôn giáo giữa Công giáo và Phật giáo, bồi thường cho gia đình các nạn nhân, chấm dứt tình trạng bắt bớ tùy tiện và trừng phạt các quan chức có liên quan. Ông kêu gọi người biểu tình không để Việt Cộng lợi dụng tình thế và hô hào chiến lược đấu tranh bất bạo động. Vào thời điểm đó, Thích Trí Quang rất được Hoa Kỳ ưu ái, vốn đã rất thất vọng với các chính sách của Diệm.
Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ, hai anh em ông Diệm và ông Nhu bị giết trong cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963, có thông tin cho biết quân đội chính phủ muốn Thích Trí Quang tham gia một nội các mới, nhưng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã khuyến cáo không nên làm vậy. Thích Trí Quang rời Đại sứ quán Hoa Kỳ ngày 4 tháng 11.
Đầu năm 1964, Thích Trí Quang tiếp tục chỉ trích Khánh và buộc tội ông bỏ tù các Phật tử. Khánh đang ở trong tình thế khó xử, vì ông rất có thể bị cho là quá mềm mỏng với những tên ủng hộ Diệm, hoặc có thái độ thù địch với những người theo Công giáo La Mã. Để xoa dịu Trí Quang, Khánh đồng ý loại bỏ tất cả các tuyên úy Công giáo La Mã ra khỏi quân đội, nhưng Thích Trí Quang vẫn tiếp tục chỉ trích những gì ông cho là Khánh thiếu quyết đoán trong việc loại bỏ những kẻ theo chủ nghĩa Diệm khỏi các vị trí chính quyền.
Tháng 7 năm 1964, Khánh soạn thảo một bản hiến pháp mới, được gọi là Hiến chương Vũng Tàu, nhằm gia tăng quyền lực cá nhân của mình. Nhưng điều này chỉ làm cho chính quyền Khánh ngày càng suy yếu khi các cuộc biểu tình và bạo loạn lớn nổ ra ở các thành phố, do Phật tử đi đầu kêu gọi chấm dứt tình trạng khẩn cấp và bỏ hiến pháp mới. Thích Trí Quang nghĩ rằng, vì Khánh sẽ không sử dụng quyền lực của mình để loại bỏ những kẻ theo chủ nghĩa Diệm nên đó chỉ là một biểu hiện của chủ nghĩa tự do. Họ yêu cầu ông phải bỏ hiến pháp mới, khôi phục lại chế độ dân sự và loại bỏ quyền lực của những thành viên Đảng Cần Lao.
Cuối năm 1964, Khánh và các tướng lĩnh ủng hộ ông cố gắng tạo ra một bộ máy dân sự khi thành lập Thượng Hội đồng Quốc gia, một cơ quan chấp chính dân sự, do Phan Khắc Sửu làm Chủ tịch và Sửu bổ nhiệm Trần Văn Hương làm Thủ tướng, một chức vụ quyền lực hơn, dù các tướng lĩnh và bản thân Khánh vẫn giữ được thực quyền. Hương có quan điểm kiên quyết chống lại các Phật tử, buộc tội Trí Quang theo phe Cộng sản. Đáp lại Trí Quang tố cáo Hương theo chủ nghĩa Diệm và dẫn đầu một cuộc biểu tình đông đảo chống lại Hương cũng như kêu gọi loại bỏ chính quyền dân sự mới. Hương sử dụng quân đội đàn áp biểu tình, khiến cuộc đối đầu thêm bạo lực. Tháng 1 năm 1965, Hương tăng cường các cuộc chiến tranh chống Cộng khi mở rộng chi tiêu quân sự bằng cách sử dụng tiền viện trợ và trang thiết bị từ người Mỹ, đồng thời tăng quy mô lực lượng vũ trang bằng cách nới lỏng các tiêu chí về số người tham gia. Điều này kích động các cuộc biểu tình và bạo loạn chống Hương lan rộng cả nước, chủ yếu từ các sinh viên và Phật tử trong độ tuổi nhập ngũ muốn đàm phán. Tin rằng các nhà hoạt động Phật giáo đang ủng hộ mình, Khánh đã cố gắng kiềm chế các cuộc biểu tình. Khánh sau đó đi tới quyết định để các lực lượng vũ trang tiếp quản chính quyền. Ngày 27 tháng 1, với sự hỗ trợ của Nguyễn Chánh Thi và Nguyễn Cao Kỳ, Khánh lật đổ Hương trong hoà bình.
Biến động Miền Trung
Khánh mất hoàn toàn quyền lực sau cuộc Đảo chính vào tháng 2 năm 1965, và một chính phủ dân sự bù nhìn được lập nên do các tướng lĩnh quân đội là Thống chế Không quân Nguyễn Cao Kỳ giữ chức Thủ tướng, và Nguyễn Văn Thiệu là Quốc trưởng vào giữa năm 1965. Trong thời gian này, tình hình Nam Việt Nam tạm ổn định, Với Thích Trí Quang, Thiệu là biểu tượng cho thời kỳ Công giáo thống trị đất nước, khi sự thăng tiến quan chức dựa trên tôn giáo. Ông mong muốn Tướng Thi, người ủng hộ Phật giáo sẽ lãnh đạo đất nước, và tố cáo Thiệu vì những tội ác của ông ta trong quá khứ với Phật tử. Thích Trí Quang nói "Thi trên danh nghĩa là một Phật tử, song lại không thực sự quan tâm đến tôn giáo".
Bất đồng giữa Thi và Kỳ vẫn tiếp diễn, cả hai đều coi ông là một mối đe doạ. Có những tuyên bố rằng Thích Trí Quang luôn có ý định thách thức Kỳ, bất chấp việc Thi có bị gạt sang một bên hay không. Các cuộc biểu tình, đình công và bạo loạn trên diện rộng đã nổ ra trên khắp miền Trung Việt Nam, do các nhà hoạt động Phật giáo lãnh đạo, và một số đơn vị quân đội tham gia gây rối và chống đối chính sách của Kỳ. Đại sứ Hoa Kỳ Henry Cabot Lodge Jr. đã gặp Thích Trí Quang để cảnh báo ông về những hành động gây hấn.
Vào tháng 5 năm 1966, Thích Trí Quang bắt đầu tuyệt thực, tố cáo sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với chính quyền Kỳ—Thiệu mà ông cho rằng nước này đang can thiệp quá sâu vào công việc nội bộ chính phủ. Sau khi lực lượng chính phủ tiến vào Huế, Thích Trí Quang là người đề nghị đồng bào đưa bàn thờ Phật xuống đường để ngăn chặn lối đi của quân chính phủ. Hàng ngàn người làm theo mà không bị cảnh sát địa phương hay QLVNCH ngăn chặn. Trong hai ngày, các bàn thờ trên khắp đường phố đã ngưng mọi hoạt động giao thông đường bộ và ngăn các đoàn xe đi về phía bắc thành phố để đóng quân. Kỳ phớt lờ các cuộc biểu tình của Phật tử và cử 400 cảnh sát chiến đấu cũng như lính nhảy dù và thủy quân lục chiến đến bảo vệ Huế, Đà Nẵng, Quảng Trị và Quy Nhơn. Họ bắt giữ những nhà bất đồng chính kiến và dỡ bỏ các bàn thờ trên đường.
Ngày 22 tháng 6 năm 1966, và chỉ có các nhà lãnh đạo Phật giáo cấp cao mới được phép gặp ông. Khi quân Cộng sản sắp tràn vào Nam Việt Nam vào tháng 4 năm 1975, Thích Trí Quang đã vận động ủng hộ Tướng Dương Văn Minh lên nắm quyền. Khi Sài Gòn thất thủ, Thích Trí Quang bị quản thúc tại gia nhưng sau đó được thả. Ông vẫn tiếp tục duy trì ảnh hưởng chính trị thấp tại chùa Ấn Quang, trước là tâm điểm của các nhà hoạt động Phật giáo chính trị những năm 1960. Ông dành thời gian chủ yếu viết sách, dịch và bình luận về kinh cũng như Luật tạng. Năm 2013, ông lưu lại chùa Từ Đàm, tiếp tục việc dịch thuật kinh điển và chuyên tâm hành trì cho tới ngày viên tịch. Theo lời di huấn của ông, nghi thức tang lễ sẽ được tiến hành sáu tiếng sau khi ông qua đời, không thành phục, không báo tang cũng như không phúng điếu.
Trong tự thuật của Đỗ Trung Hiếu, "Thống nhất phật giáo Việt Nam" viết 1994, ông ta đã thuật lại với cựu bộ trưởng bộ ngoại giao Bắc Việt Xuân Thủy 1981 việc Trần Bạch Đằng, cựu bí thư thành ủy Sài Gòn cho Thích Trí Quang là loại CIA chiến lược, với những lý do như "năm 1964 nhân trận lụt lớn ở miền Trung, quân Giải phóng chuẩn bị nhổ các đồn bót ngụy, Trí Quang nêu khẩu hiệu "Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cứu lụt". Cờ 5 màu dựng trên các Ca-nô, tàu máy bay trực thăng cứu sạch bọn ngụy quân... Năm 1965 Mỹ đổ quân trắng trợn xâm lược miền Nam Việt Nam, Mặt trận Giải phóng Miền Nam nêu khẩu hiệu chống quân phiệt để đẩy mạnh Phong trào chiến tranh Cách mạng chống Mỹ xâm lược, Thượng tọa Trí Quang nêu khẩu hiệu "cầu nguyện hòa bình" làm hạn chế cuộc đấu tranh chống Mỹ của ta".
Nguyễn Cao Kỳ nhận xét Thích Trí Quang là người có tham vọng chính trị nhưng vì là người tu hành nên ông không thể nắm giữ các chức vụ trong chính quyền vì vậy ông muốn trở thành một "thái thượng hoàng" của miền Nam Việt Nam, người có thể điều khiển giới lãnh đạo Việt Nam Cộng hòa theo ý mình. Sau khi Tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Phật giáo tại miền Nam trở thành một lực lượng "kiêu binh" gây rối loạn nền chính trị Việt Nam Cộng hòa.