✨Thí nghiệm Michelson-Morley

Thí nghiệm Michelson-Morley

Thí nghiệm Michelson-Morley là một thí nghiệm quan trọng trong lịch sử vật lý học, thực hiện năm 1887 bởi Albert Michelson và Edward Morley tại cơ sở mà ngày nay là Đại học Case Western Reserve, được coi là thí nghiệm đầu tiên phủ định giả thuyết bức xạ điện từ truyền trong môi trường giả định ê-te, đồng thời gây dựng bằng chứng thực nghiệm cho một tiên đề của thuyết tương đối hẹp của Albert Einstein và cho ra số liệu đo đạc chính xác về tốc độ ánh sáng.

Vấn đề khó trong việc kiểm tra giả thuyết khí ête là đo được vận tốc ánh sáng một cách chính xác. Cuối thế kỷ thứ 19, khi máy đo giao thoa đã được phát triển để giúp cho việc kiểm tra với độ chính xác khá cao. Albert Abraham Michelson và Edward Morley đã sử dụng nó cho thí nghiệm của mình, và thu được kết quả đo khá chính xác, không chỉ vận tốc của ánh sáng, mà còn đo được tỉ số của vận tốc ánh sáng ở hai chiều vuông góc nhau. Tỉ số này có ý nghĩa nòng cốt cho giả thuyết khí ête.

Mô hình thí nghiệm

Sơ đồ thí nghiệm Michelson-Morley, (1) = Nguồn sáng đồng pha, (2) = Máy thu, (3) = Gương 1, (4) = Gương 2, (5) = Gương bán mạ. Thí nghiệm Michelson-Morley được mô tả như trong hình vẽ. Ánh sáng đơn sắc đồng pha đi vào một tấm gương bán mạ, A, rồi được chia làm hai phần giống nhau. Một phần của tia sáng đi vào tấm gương phẳng, B, cách A một khoảng l1, và phản chiếu lại. Một phần khác của ánh sáng đi vào tấm gương phẳng, C, cách A khoảng l2, và cũng phản chiếu lại. Tia phản chiếu từ B đến A sẽ được truyền qua một phần tới máy thu D. Tia phản chiếu từ C đến A sẽ được phản xạ một phần tới máy thu D. Tại D, hai tia giao thoa với nhau tạo ra các vạch giao thoa. Bằng việc đếm các vạch giao thoa, chúng ta biết được một cách chính xác sự lệch pha của hai chùm sáng, do đó suy ra chênh lệch đường đi của hai tia sáng.

Nếu Trái Đất đứng yên và bị bao phủ bởi ête và l1=l2 thì tại D ta sẽ thu được các viền giao thoa không bị lệch. Nhưng giả sử l1 và Trái Đất quay với vận tốc u theo hướng x. Thời gian cho ánh sáng đi từ A đến B và ngược lại sẽ là: : t_1 = \frac{l_1}{c-u} + \frac{l_1}{c+u} = \frac{2 l_1}{ c \cdot (1 - (u^2/c^2))} \ =\ \frac{ 2l_1}{c} (1 + \frac{u^2}{ c^2} + \cdots) Ở đây, c là vận tốc ánh sáng trong ête.

Đặt t2 là thời gian ánh sáng đi từ A đến C và ngược trở lại. Chúng ta biết rằng trong khi ánh sáng đi từ A đến C, tấm gương tại C di chuyển tương đối với ête, với một khoảng là d = \frac{u \cdot t_2}{2}. Tương tự với khi nó phản chiếu lại, tấm gương tại A di chuyển với cùng một khoảng theo hướng x. Bằng việc sử dụng định lý Pytago, tổng đường đi của tia sáng là: : L_2 = 2 \sqrt{ l_2^2 + \frac{u^2 t_2^2}{4 Do đó, ta được: : t_2 = \frac{2}{c} \sqrt{ l_2^2 + \frac{u^2t_2^2}{4 hay: : t_2^2 (1 -\frac{ u^2}{c^2}) = \frac{4l_2^2}{c^2} : t_2 = \frac{2l_2}{c} \frac{1}{\sqrt{(1 - u^2/c^2) \ =\ \frac{2l_2}{c} (1 + \frac{u^2}{2c^2} + \cdots) Độ chênh lệch thời gian là: : \Delta t = t_1 - t_2 = \frac{2}{c} [ \frac{l_1}{ 1- (u^2/c^2)} - \frac{ l_2}{\sqrt{1- (u^2/c^2)]

Nếu l_1 = l_2 (đúng như trong thí nghiệm), khi ấy: : \Delta t =\ \frac{2l}{c} (1 + \frac{u^2}{c^2} - 1 - \frac{u^2}{2c^2})\ =\ \frac{ l_1 u^2}{ c^3} > 0 Nếu công thức cộng vận tốc Galileo được thỏa mãn thì hai tia sáng khi đi vào máy thu sẽ có hiệu quang trình là \Delta r = c \Delta t .

Khi đó chúng sẽ lệch pha nhau 1 lượng là

\Delta \phi = \frac{2\pi}{\chi}\Delta r = \frac{2\pi l_1u^2}{c^2\chi} ,

trong đó \chi là bước sóng ánh sáng. Từ đó ta cũng có thể thay đổi độ lệch pha \Delta \phi của 2 sóng bằng cách thay đổi hướng chuyển động x của giao thoa kế.

Ở đây, \Delta t tỉ lệ với số vạch đỏ thu được. Và theo công thức trên, số vạch đỏ thu được là dương.

Giả sử rằng máy đo quay một góc 90°. Khi ấy vạch giao thoa sẽ phải thay đổi. Vì thế, bằng việc quay máy đo, người ta có thể quan sát được một sự thay đổi đều đặn của vạch đỏ, với mút cực đại và cực tiểu chỉ định bởi chiều của vận tốc quay của Trái Đất trong ête. Từ độ lớn của các vạch đỏ, người ta có thể tính được giá trị của u.

Tất nhiên, nó có thể xảy ra bởi sự cố, rằng thời điểm của thí nghiệm được thực hiện Trái Đất của chúng ta dừng quay trong ête, dẫn đến việc không quan sát được sự thay đổi của vạch đỏ khi máy đo quay. Nhưng sau 6 tháng đợi chờ, vận tốc của Trái Đất sẽ thay đổi là 57,6 km/s vì Trái Đất nằm trên vị trí đối diện trong quỹ đạo quanh Mặt Trời, nên một vạch đỏ sẽ phải quan sát được.

Vạch đỏ dự đoán tỉ lệ với \frac{u^2}{c^3} là rất nhỏ. Song máy đo của Michelson và Morley vẫn có đủ nhậy để phát hiện ra những vạch đỏ dự đoán đó.

Kết quả

Khi thí nghiệm được thực hiện, kết quả đã thu được ngược lại với mong chờ về giả thuyết ête. Mặc dù các dụng cụ đo là chính xác, không có một vạch đỏ nào quan sát được tại bất kỳ mùa nào trong năm. Sau đó, những thí nghiệm kiểm chứng khác về giả thuyết khí ête cũng cùng cho một kết quả phủ định như trên.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thí nghiệm Michelson-Morley** là một thí nghiệm quan trọng trong lịch sử vật lý học, thực hiện năm 1887 bởi Albert Michelson và Edward Morley tại cơ sở mà ngày nay là Đại học Case
**Edward Williams Morley** (29.1.1838 - 24.2.1923) là một nhà khoa học người Mỹ, nổi tiếng vì thí nghiệm Michelson-Morley. ## Thời niên thiếu Morley sinh tại Newark, New Jersey và lớn lên ở West Hartford,
**Albert Michelson** (19 tháng 12 năm 1852 – 9 tháng 5 năm 1931) là nhà vật lý học người Mỹ gốc Phổ, được biết đến với nghiên cứu về cách đo tốc độ ánh sáng
**Lịch sử của thuyết tương đối hẹp** bao gồm rất nhiều kết quả lý thuyết và thực nghiệm do nhiều nhà bác học khám phá như Albert Abraham Michelson, Hendrik Lorentz, Henri Poincaré và nhiều
:_Bài này nói về một khái niệm vật lý lý thuyết. Xem các nghĩa khác của Ête tại Ête (định hướng)_ **Ête** là một khái niệm thuộc vật lý học đã từng được coi như
Trong vật lý học, **thuyết tương đối hẹp** (**SR**, hay còn gọi là **thuyết tương đối đặc biệt** hoặc **STR**) là một lý thuyết vật lý đã được xác nhận bằng thực nghiệm và chấp
[[Phương trình nổi tiếng của Einstein dựng tại Berlin năm 2006.]] **Thuyết tương đối** miêu tả cấu trúc của không gian và thời gian trong một thực thể thống nhất là không thời gian cũng
**Tốc độ ánh sáng** trong chân không, ký hiệu là , là một hằng số vật lý cơ bản quan trọng trong nhiều lĩnh vực vật lý. Nó có giá trị chính xác bằng 299.792.458 m/s
thumb|upright|[[Wilhelm Röntgen (1845–1923), người đầu tiên nhận giải Nobel Vật lý.]] Mặt sau huy chương giải Nobel vật lý **Giải Nobel Vật lý** là giải thưởng hàng năm do Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng
Thí nghiệm Michelson-Morley dùng gương bán mạ, ở vị trí số 5 trên hình. **Gương bán mạ** là một loại gương cho phép tia sáng đi tới được phản xạ lại một phần và truyền
liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp tin:Measuring_Tape_Inch+CM.jpg|nhỏ|Một chiếc [[thước cuộn thép với cả đơn vị đo lường hệ mét và đơn vị đo lường của Anh đặc cạnh hai đồng xu Mỹ để so sánh.]] **Đo lường** là việc gán
thumb|Lăng kính tam giác phân tách chùm ánh sáng trắng, tách ra các bước sóng dài (đỏ) và các bước sóng ngắn hơn (màu lam). Đèn sư tử ở [[Hẻm núi Linh dương|Antelope Canyon, Hoa
** Jules Henri Poincaré ** (29 tháng 4 năm 1854 – 17 tháng 6 năm 1912) là một nhà toán học, nhà vật lý lý thuyết, và là một triết gia người Pháp. Ông là
nhỏ|[[Biểu đồ hộp của dữ liệu từ thí nghiệm Michelson–Morley cho thấy bốn điểm bất thường ở cột chính giữa, và một điểm bất thường ở cột đầu tiên.]] Trong thống kê, một **điểm bất
Trong vật lý học, **phép biến đổi Lorentz** (hoặc **biến đổi Lorentz**) đặt theo tên của nhà vật lý học người Hà Lan Hendrik Lorentz là kết quả thu được của Lorentz và những người