✨Siêu tân tinh loại Ia

Siêu tân tinh loại Ia

Minh họa phần trung tâm của tinh vân hành tinh Henize 2-428 trong [[Thiên Ưng (chòm sao)|Thiên Ưng gồm hai sao lùn trắng có khối lượng nhỏ hơn Mặt Trời ]] Siêu tân tinh loại Ia là một trong các loại siêu tân tinh xảy ra từ vụ bùng nổ của sao lùn trắng. Sao lùn trắng là tàn dư của một ngôi sao ở cuối đời của nó và không còn phản ứng tổng hợp hạt nhân ở trong nhân ngôi sao nữa. Mặc dù vậy, các sao lùn trắng với thành phần cacbon-oxy có khả năng tạo ra phản ứng tổng hợp hạt nhân và giải phóng một lượng năng lượng lớn nếu nhiệt độ bên trong ngôi sao đủ cao.

Mô hình lý thuyết cho thấy các sao lùn trắng với tốc độ tự quay thấp có giới hạn khối lượng trên nhỏ hơn giới hạn Chandrasekhar và bằng khoảng 1,38 lần khối lượng Mặt Trời. Khối lượng tới hạn này được duy trì bởi áp suất thoái hóa electron. Vượt qua khối lượng tới hạn này, sao lùn trắng sẽ bị co sụp. Một giả thuyết chung được đưa ra là nếu một sao lùn trắng dần dần bồi tụ khối lượng từ một sao đồng hành, thì lõi của nó sẽ đạt đến nhiệt độ đủ lớn để xảy ra phản ứng tổng hợp cacbon khi đến một giới hạn nào đó. Nếu sao lùn trắng sáp nhập với một ngôi sao khác (một sự kiện rất hiếm), ngay lập tức khối lượng của nó sẽ vượt khối lượng tới hạn và bắt đầu suy sụp, nhiệt độ trong lõi tăng lên và kích hoạt các phản ứng tổng hợp hạt nhân. Chỉ trong vài giây của phản ứng tổng hợp hạt nhân, một lượng lớn vật chất trong sao lùn trắng sẽ tham gia vào phản ứng sinh nhiệt không kiểm soát được, và năng lượng giải phóng ra vào khoảng (1–) nhấn chìm nó trong vụ nổ siêu tân tinh.

Loại siêu tân tinh này luôn tạo ra độ sáng lúc cực đại một giá trị không đổi do khối lượng vật chất mà sao lùn trắng nhận được từ sự bồi tụ là đều đặn và tiến sát tới giá trị khối lượng tới hạn thì xảy ra vụ nổ. Sự ổn định của giá trị cường độ độ sáng cho phép những vụ nổ siêu tân tinh loại Ia được dùng làm những ngọn nến chuẩn để đo khoảng cách tới các thiên hà chủ bởi vì cấp sao biểu kiến của siêu tân tinh phụ thuộc cơ bản vào khoảng cách của chúng tới Trái Đất.

Mô hình được chấp thuận rộng rãi

nhỏ|Phổ của siêu tân tinh loại Ia, [[SN 1998aq|SN1998aq, một ngày sau khi ánh sáng đạt cực đại trong dải B]]

Siêu tân tinh loại Ia được xếp vào "biểu đồ phân loại siêu tân tinh Minkowski-Zwicky", do các nhà thiên văn học người Hoa Kỳ gốc Đức-Litva Rudolph Minkowski và Hoa Kỳ gốc Thụy Sĩ Fritz Zwicky lập ra. Theo đó siêu tân tinh loại này có thể hình thành theo một số cách khác nhau, nhưng chúng đều có một cơ chế chung. Khi một sao lùn trắng với thành phần cacbon-oxy, và sao lùn trắng bắt đầu suy sụp. Để chống lại lực hút hấp dẫn rất mạnh, sao lùn trắng sẽ suy sụp thành sao neutron, như trường hợp thường xảy ra đối với các sao lùn trắng có thành phần chính từ magiê, neon và oxy.

Hiện nay, quan điểm của các nhà thiên văn về mô hình các vụ nổ siêu tân tinh loại Ia đó là giới hạn khối lượng mà các sao lùn trắng bồi tụ dẫn tới vụ nổ là không bao giờ đạt đến. Thay vào đó, sự tăng dần áp suất và mật độ do sự tăng dần khối lượng làm tăng nhiệt độ tại lõi, thì bắt đầu một chu kỳ đối lưu trong nó kéo dài trong khoảng 1.000 năm. Ở một số thời điểm và vị trí trên sao lùn trắng trong chu kỳ này, quá trình tổng hợp các hạt nhân cacbon bắt đầu xảy ra làm sản sinh năng lượng và áp suất. Chi tiết về sự đốt cháy cacbon vẫn chưa được biết cụ thể, bao gồm vị trí và số điểm khi xảy ra phản ứng tổng hợp này. Phản ứng tổng hợp hạt nhân oxy cũng được bắt đầu ngay sau đó, nhưng các hạt nhân oxy không bị tiêu tan hoàn toàn như các hạt nhân cacbon. nhỏ|trái|Tàn tích siêu tân tinh Ia G299 Khi các phản ứng tổng hợp diễn ra, nhiệt độ của sao lùn trắng bắt đầu tăng lên. Một ngôi sao trong dãy chính khi nhiệt lượng trong lõi sao tăng lên thì lớp bên ngoài của nó sẽ nở rộng và lạnh đi để làm cân bằng với nhiệt năng. Tuy nhiên, áp suất lượng tử (áp suất thoái hóa) lại độc lập với nhiệt độ; do vậy sao lùn trắng không thể điều chỉnh được quá trình đốt cháy hạt nhân như các sao thông thường, và quá trình đốt cháy hạt nhân sản sinh ra năng lượng không được kiểm soát. Ngọn lửa cháy một cách cực nhanh, một phần do sự bất ổn định Rayleigh–Taylor và các tương tác với sự nhiễu loạn. Các nhà khoa học vẫn còn tranh cãi về vấn đề khi nào sự nổ với vận tốc siêu thanh chuyển thành quá trình cháy nổ với vận tốc nhỏ hơn vận tốc âm thanh.

Bỏ qua các chi tiết chính xác trong quá trình diễn ra các phản ứng tổng hợp hạt nhân, đa phần các nhà vật lý thiên văn đều đồng ý rằng một lượng lớn các hạt nhân cacbon và oxy trong sao lùn trắng được tổng hợp thành các nguyên tố nặng hơn trong một thời gian chỉ vài giây,

Sự hình thành

nhỏ|trái|[[IK Pegasi|IK Pegasi B bùng nổ thành siêu tân tinh loại Ia]] Một mô hình về sự hình thành siêu tân tinh loại Ia là từ hệ sao đôi. Ban đầu hệ sao đôi chứa các sao ở dãy chính, với một sao có khối lượng lớn hơn sao kia. Do có khối lượng lớn hơn, ngôi sao này sẽ tiến hóa vào giai đoạn "nhánh khổng lồ tiệm cận" (asymptotic giant branch) sớm hơn, lúc đó lớp bên ngoài của nó sẽ nở rộng đáng kể. Nếu hai sao cùng nằm chung trong một lớp bao (lớp của sao khối lượng lớn đã nở rộng) thì khối lượng của cả hệ có thể mất đi, làm giảm mô men động lượng và do đó là chu kỳ và bán kính quỹ đạo. Sau khi ngôi sao lớn tiến hóa thành sao lùn trắng, ngôi sao thứ hai tiến hóa sang giai đoạn sao khổng lồ đỏ và bắt đầu xảy ra sự bồi tụ vật chất cho sao lùn trắng. Trong giai đoạn chia sẻ cùng một lớp bao vật chất, hai thiên thể sẽ quay theo quỹ đạo xoắn ốc tiến sát về nhau và mô men động lượng của hệ bị giảm dần. Kết quả là chu kỳ quỹ đạo của hệ giảm xuống chỉ còn vài giờ. Nếu sự bồi tụ đủ lâu, sao lùn trắng có thể đạt đến khối lượng của giới hạn Chandrasekhar.

Một khả năng thứ hai, ít gặp hơn, cơ chế cho sự hình thành siêu tân tinh loại Ia đó là sự va chạm và sáp nhập của hai sao lùn trắng, và khối lượng của thiên thể cuối cùng sẽ vượt khối lượng trong giới hạn Chandrasekhar (được goi là sao lùn trắng khối lượng siêu-Chandrasekhar). Trong trường hợp này, khối lượng tổng cộng không bị ràng buộc bởi giới hạn Chandrasekhar. Và đây là một trong vài cách giải thích cho khối lượng dị thường (2 lần khối lượng Mặt Trời) cho nguồn gốc của sao tổ tiên trong tàn dư siêu tân tinh SN 2003fg.

Sự va chạm của các sao đơn độc nằm trong Ngân Hà được cho là xảy ra với 1 sự kiện trong vòng - năm; vượt xa tần suất xuất hiện hiện tượng sao mới (novae). Tuy vậy, sự va chạm có khả năng xảy ra cao hơn đối với những vùng đông đúc sao ở các cụm sao cầu. (như sao xanh dị thường-blue stragglers) Một kịch bản tương tự đó là sự va chạm trong hệ sao đôi, hai giữa hai hệ sao đôi chứa sao lùn trắng. Sự va chạm như thế để lại một hệ gồm hai sao lùn trắng quay gần nhau, theo thời gian bán kính quỹ đạo của hệ bị giảm và cuối cùng hai sao lùn trắng va chạm và sáp nhập vào nhau.

Sao lùn trắng đồng hành cũng có thể bồi tụ vật chất từ những loại sao đồng hành khác, như sao dưới khổng lồ (subgiant) hay (nếu quỹ đạo đủ gần) thậm chí là sao trong dãy chính. Quá trình tiến hóa trong giai đoạn bồi tụ này diễn ra chi tiết như thế nào vẫn chưa được biết rõ, và nó có thể phụ thuộc vào cả tốc độ bồi tụ và sự truyền mô men động lượng cho sao lùn trắng. Sau vụ nổ siêu tân tinh, sao đồng hành có bị đẩy tách ra khỏi hệ đôi hay không phụ thuộc vào khối lượng vật chất đã bị đẩy ra trong vụ nổ từ sao lùn trắng.

Quan sát

Không giống như những loại siêu tân tinh khác, siêu tân tinh loại Ia thường diễn ra trong mọi kiểu thiên hà, bao gồm thiên hà elip. Và chúng ít xuất hiện trong các vùng đang sản sinh sao. Khi sao lùn trắng được hình thành cuối giai đoạn của chu kỳ tiến hóa của một ngôi sao trong dãy chính, thì những hệ sao đôi như thế đã dịch chuyển ra xa khỏi vùng nơi chúng được hình thành lên (các đám mây phân tử). Do vậy một hệ sao đôi có quỹ đạo nhỏ có thể mất hàng triệu năm để diễn ra quá trình truyền vật chất (và có khả năng tạo ra hiện tượng sao mới) trước khi đạt tới điều kiện cho phép xảy ra vụ nổ siêu tân tinh loại Ia.

Một vấn đề khó trong thiên văn học đó là xác định được loại sao (progenitors) trước khi xảy ra vụ nổ siêu tân tinh. Quan sát được trực tiếp loại sao tiền thân này sẽ là chứng cứ thuyết phục ủng hộ một trong các mô hình về nguồn gốc siêu tân tinh. Cho đến năm 2006, quá trình tìm kiếm sao tiền thân này đã diễn ra được hơn 1 thế kỷ. Mặc dù sao tiền thân cho siêu tân tinh loại Ia vẫn chưa được quan sát thấy trực tiếp, nhưng các nhà thiên văn học đã tập trung quan sát siêu tân tinh SN 2011fe chỉ vài tiếng sau khi nó xảy ra và họ đã thu được những thông tin giá trị. Kết hợp với dữ liệu quan sát trước đó từ kính thiên văn không gian Hubble các nhà thiên văn thấy, tại vị trí xảy ra siêu tân tinh họ đã không quan sát được một ngôi sao khổng lồ đỏ hay sao hellium nào, và do vậy có thể ngoại trừ trường hợp sao khổng lồ đỏ là sao đồng hành trong siêu tân tinh Ia; sao đồng hành trong siêu tân tinh SN 2011fe có thể là sao trong dãy chính hoặc sao dưới khổng lồ. Thành phần plasma bay ra từ vụ nổ có chứa cacbon và oxy càng củng cố thêm sao tiền thân của siêu tân tinh này là sao lùn trắng chứa các nguyên tố này.

Biểu đồ cường độ sáng

Biểu đồ cường độ sáng (so sánh với Mặt Trời, L0) theo thời gian cho thấy đặc trưng của đường cong cường độ sáng của siêu tân tinh loại Ia (SNIa). Độ sáng đạt cực đại thường do sự phân rã của [[Niken|Nikel (Ni), trong khi giai đoạn sau thường là do sự phân rã của Coban (Co).]] Siêu tân tinh loại Ia có đường cong cường độ sáng rất đặc trưng khi vẽ biểu đồ biểu diễn độ sáng là một hàm theo thời gian sau vụ nổ. Gần thời điểm độ sáng đạt cực đại, các nhà thiên văn thực hiện phân tích phổ của vụ nổ thì họ thu được các đường đặc trưng cho các nguyên tố khối lượng trung bình từ oxy tới calci; đây là những thành phần chính trong lớp bên ngoài của ngôi sao. Hàng tháng sau vụ nổ, khi lớp bên ngoài đã mở rộng đạt đến độ trong suốt cho phép bức xạ điện từ truyền qua được, phổ thu được sẽ chủ yếu là của các bức xạ phát ra bởi vật liệu gần lõi của ngôi sao, gồm các nguyên tố nặng được tổng hợp trong quá trình xảy ra vụ nổ; đa phần là các đồng vị gần với khối lượng của sắt. Sự phân rã phóng xạ của nikel-56 thành coban-56 và đến sắt-56 tạo ra các photon năng lượng cao và chiếm phần lớn năng lượng được giải phóng ở thời điểm sau của vụ nổ. trong thiên văn học liên thiên hà. Nguyên nhân của sự đồng đều trong đường cong cường độ sáng của siêu tân tinh loại Ia vẫn còn là một câu hỏi mở. Năm 1998, các quan sát trên những siêu tân tinh loại Ia ở xa đã cho một kết quả bất ngờ đó là sự giãn nở của Vũ trụ đang tăng tốc.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Minh họa phần trung tâm của tinh vân hành tinh Henize 2-428 trong [[Thiên Ưng (chòm sao)|Thiên Ưng gồm hai sao lùn trắng có khối lượng nhỏ hơn Mặt Trời ]] **Siêu tân tinh loại
right|thumb|Tàn dư đang giãn nở của [[SN 1987A, một siêu tân tinh loại II dị thường trong Đám mây Magellan Lớn. _ảnh của NASA._]] **Siêu tân tinh loại II** là kết quả của sự sụp đổ
**Siêu tân tinh** (chữ Hán: 超新星) hay **sao siêu mới** (; viết tắt là **SN** hay **SNe**) là một sự kiện thiên văn học biến đổi tức thời xảy ra trong giai đoạn cuối của
**IK Pegasi** (hay **HR 8210**) là một hệ sao đôi có vị trí biểu kiến nằm trong chòm sao Phi Mã. Nó có độ sáng vừa đủ để có thể quan sát thấy bằng mắt
**G299.2-2.9** là một tàn tích siêu tân tinh trong Ngân Hà, cách Trái Đất 16.000 năm ánh sáng. Bán kính quan sát được của lớp vỏ còn sót lại tương ứng với thời gian giãn
**Siêu tân tinh 2010lt** là một vụ nổ sao siêu mới được ghi nhận bởi một cô bé lúc đó 10 tuổi Kathryn Aurora Gray, con của một nhà thiên văn nghiệp dư thành phố
Một **ngôi sao zombie** là kết quả giả thuyết của một siêu tân tinh loại Iax để lại một ngôi sao còn sót lại, thay vì phân tán hoàn toàn khối lượng của ngôi sao.
**Phát nổ carbon** là sự bùng nổ dữ dội của phản ứng tổng hợp hạt nhân nhiệt hạch trong một ngôi sao lùn trắng mà trước đó được làm lạnh chậm. Nó liên quan đến
**Kim loại kiềm** (tiếng Anh: _Alkali metal_) là một nhóm các nguyên tố hóa học gồm có lithi (Li), natri (Na), kali (K), rubidi (Rb), caesi (Cs) và franci (Fr). Các kim loại kiềm cùng
**Messier 87** (hay còn có tên gọi khác là **Xử Nữ A** hoặc **NGC 4486**, thường được viết gọn là **M87**) là một thiên hà elip siêu khổng lồ gồm 1 nghìn tỷ ngôi sao
nhỏ|phải|Sao Thiên Lang A và Thiên Lang B, chụp bởi kính thiên văn Hubble. Thiên Lang B, một sao lùn trắng, có thể thấy là một chấm mờ phía dưới bên trái cạnh sao Thiên
**SN 1006** là hiện tượng thiên văn có độ sáng cao nhất từng được biết đến trong lịch sử. Nó xuất hiện lần đầu tại chòm sao Sài Lang ngày 30 tháng 4 và 1
**Calci**, hay còn được viết là **canxi**, là một nguyên tố hóa học có ký hiệu **Ca** và số nguyên tử 20. Là một kim loại kiềm thổ, calci có độ phản ứng cao: nó
Theo thuyết Vụ Nổ Lớn, [[vũ trụ bắt nguồn từ một trạng thái vô cùng đặc và vô cùng nóng (điểm dưới cùng). Một lý giải thường gặp đó là không gian tự nó đang
**Thiên hà Chong Chóng** (còn gọi là **Messier 101**, **M101** hay **NGC 5457**) là một thiên hà xoắn ốc trung gian vì có thể thấy những nhánh xoắn ốc mở rộng ra ngoài. Thiên hà
**Vũ trụ** bao gồm tất cả các vật chất, năng lượng và không gian hiện có, được xem là một khối bao quát. Vũ trụ hiện tại chưa xác định được kích thước chính xác,
Hình dung về tỷ lệ thành phần vũ trụ:
năng lượng tối 68,3%,
**vật chất tối** 26,8%,
khí [[Hydro, Heli tự do, các sao, neutrino, thành phần chất rắn và các phần
**Adam G. Riess** (sinh năm 1969, Washington, D.C., Hoa Kỳ) là một nhà vật lý thiên văn tại Đại học Johns Hopkins và Viện Khoa học Kính thiên văn vũ trụ và được biết đến
**Silic** là là một nguyên tố hóa học có ký hiệu **Si** và số nguyên tử 14. Đây là một chất rắn kết tinh cứng, giòn có ánh kim màu xanh xám và là một
Trong vật lý thiên văn, thuật ngữ **vật chất tối** chỉ đến một loại vật chất giả thuyết trong vũ trụ, có thành phần chưa hiểu được. Vật chất tối không phát ra hay phản
Trong phạm vi của ngành vũ trụ học, **hằng số vũ trụ** (hay **hằng số vũ trụ học**) là dạng mật độ năng lượng đồng nhất gây ra sự _giãn nở gia tốc_ của vũ
**NGC 3393** là một thiên hà xoắn ốc có rào chắn nằm trong chòm sao Hydra. Nó nằm cách Trái Đất khoảng 180 triệu năm ánh sáng, với kích thước biểu kiến của nó đo
Trong thiên văn học, **quần thể sao** (stellar population) đề cập đến một tập hợp con của các ngôi sao trong một thiên hà có độ kim loại gần giống nhau (và do đó có
**NGC 3191** (còn được gọi là **NGC 3192**) là một thiên hà xoắn ốc có rào chắn trong chòm sao Ursa Major. Nó nằm ở khoảng cách khoảng 400 triệu năm ánh sáng từ Trái
nhỏ|Thiên hà M96 **Messier 96** (còn được gọi là **M96** hoặc **NGC 3368**) là một thiên hà xoắn ốc trung gian nằm trong chòm sao Sư Tử cách chúng ta khoảng 35 triệu năm ánh
**Messier 59** hoặc **M59**, còn được gọi là **NGC 4621**, là một thiên hà hình elip trong chòm sao xích đạo Xử Nữ. M59 là một thành viên của cụm thiên hà Xử Nữ, với
**NGC 2608** (còn được gọi là **Arp 12**) là một thiên hà xoắn ốc dạng thahnh nằm cách 93 triệu năm ánh sáng trong chòm sao Cự Giải. Nó có chiều dài 62.000 năm ánh
nhỏ|Hình ảnh NGC 4178 của [[Sloan Digital Sky Survey|SDSS]] **NGC 4178** là tên của một thiên hà xoắn ốc có thanh chắn nằm trong chòm sao Xử Nữ Vào ngày 11 tháng 4 năm 1825,
**NGC 2357** là một thiên hà xoắn ốc nằm trong chòm sao Song Tử. Nó được phát hiện bởi Édouard Stephan vào ngày 6 tháng 2 năm 1885. ## Siêu tân tinh SN 2010bj, siêu
**NGC 2525** là một thiên hà xoắn ốc dạng thanh nằm trong chòm sao Thuyền Vĩ. Nó nằm ở khoảng cách khoảng 70 triệu năm ánh sáng từ Trái đất, với kích thước rõ ràng
nhỏ|Thiên hà NGC 4536 **NGC 4536** là tên của một thiên hà xoắn ốc trung gian trong chòm sao Xử Nữ cách khoảng 10 ° về phía nam của điểm giữa ở cụm các thiên
**NGC 428** là một thiên hà xoắn ốc có rào chắn trong chòm sao Kình Ngư, với cấu trúc xoắn ốc bị biến dạng và cong vênh, có thể là kết quả của sự va
**NGC 474** là một thiên hà hình elip cách xa khoảng 100 triệu năm ánh sáng trong chòm sao Song Ngư. Thiên hà rộng lớn này được biết là sở hữu đuôi thủy triều, mặc
**NGC 5308** là một thiên hà dạng thấu kính cạnh trong chòm sao Đại Hùng. Nó được phát hiện vào ngày 19 tháng 3 năm 1790 bởi William Herschel. Nó được John Louis Emil Dreyer
thumb|NGC 2655 từ Planewave CDK24 ở Julian, CA **NGC 2655** là tên của một thiên hà hình hạt đậu nằm trong chòm sao Lộc Báo. Tính từ trái đất, khoảng cách của nó xấp xỉ
**NGC 4070** là tên của một thiên hà elip nằm trong chòm sao Hậu Phát. Khoảng cách của nó với Trái Đất của chúng ta là khoảng xấp xỉ 340 triệu năm ánh sáng. Vào
**HD 49798** là ngôi sao nhị phân trong chòm sao Puppis, khoảng 650 phân tích từ Trái đất. Nó có cường độ rõ ràng là 8,3. HD 49798 được phát hiện vào năm 1964 là
**Renée Hložek** (sinh ngày 15 tháng 11 năm 1983) là một nhà vũ trụ học người Nam Phi và là Giáo sư Vật lý tại Viện Thiên văn học và Vật lý thiên văn Dunlap
**Kali** (bắt nguồn từ tiếng Tân Latinh: _kalium_, danh pháp IUPAC: _potassium_) là nguyên tố hoá học ký hiệu **K**, số thứ tự 19 trong bảng tuần hoàn. Ngoài những tên đã nêu, Kali còn
Keep age as a secret!!! Mongnis Skin Vitalizing Serum 120ml - mỹ phẩm hàn quốc của Ruan Korea Mỹ phẩm Mongnis là một dòng sản phẩm đặc biệt cao cấp và chuyên biệt dành cho
**Trận Ia Đrăng** là một trong những trận lớn đầu tiên giữa liên quân Quân lực Việt Nam Cộng hòa-Quân đội Hoa Kỳ và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong thời kỳ Chiến
**NGC 5468** là tên của một thiên hà xoắn ốc trung gian nằm trong chòm sao Xử Nữ. Khoảng cách của nó với chúng ta là khoảng xấp xỉ 140 triệu năm ánh sáng. Kích
**NGC 6951** (ngoài ra còn được biên mục với tên là _NGC 6952_) là tên của một thiên hà xoắn ốc có thanh chắn nằm trong chòm sao Tiên Vương. Khoảng cách của nó với
**NGC 524** là một thiên hà dạng thấu kính nằm trong chòm sao Song Ngư, cách Trái Đất khoảng 90 triệu năm ánh sáng. Ở chỗ phình trung tâm của thiên hà là khí gas
nhỏ|Hình ảnh của NGC 3665 của [[Sloan Digital Sky Survey|SDSS]] **NGC 3665** là tên của một thiên hà hình hạt đậu nằm trong chòm sao Đại Hùng. Khoảng cách của nó với trái đất của
nhỏ|Hình ảnh của NGC 6907 **NGC 6907** là tên của một thiên hà xoắn ốc nằm trong chòm sao Ma Kết. Khoảng cách của nó với trái đất của chúng ta là khoảng xấp xỉ
**NGC 2775** (còn được gọi là **Caldwell 48**) là một thiên hà xoắn ốc không thanh với cấu trúc vòng nổi bật trong chòm sao Cự Giải. Thiên hà này có một khối phình và
**NGC 3506** là một thiên hà xoắn ốc trong chòm sao Leo. Nó nằm ở khoảng cách khoảng 300 triệu năm ánh sáng từ Trái đất, với kích thước rõ ràng, có nghĩa là NGC
**NGC 7606** là tên của một thiên hà xoắn ốc nằm trong chòm sao Bảo Bình. Khoảng cách của nó đến Trái Đất là khoảng 100 triệu năm ánh sáng. Kích thước biểu kiến của
**NGC 488** là một thiên hà xoắn ốc trực diện trong chòm sao Song Ngư. Nó ở cách Trái Đất khoảng 90 triệu năm ánh sáng. Đường kính của nó được ước tính là 52,6