✨Rafael Márquez

Rafael Márquez

Rafael Márquez Álvarez (; sinh ngày 13 tháng 2, 1979 tại Zamora de Hidalgo, Michoacán) là một cựu cầu thủ bóng đá và huấn luyện viên người México. Anh thi đấu ở vị trí trung vệ, từng giành nhiều danh hiệu trong thời gian khoác áo các câu lạc bộ Monaco, FC Barcelona và New York Red Bulls. Năm 2006, anh vô địch UEFA Champions League cùng Barcelona và trở thành cầu thủ Mexico đầu tiên vô địch giải đấu này. Hiện tại ông đang dẫn dắt đội bóng Barcelona B

Ở đội tuyển Mexico, Márquez có hơn 100 lần khoác áo đội tuyển. Anh cùng với Lothar Matthäus, Antonio Carvajal đang nắm giữ kỉ lúc tham dự nhiều kì World Cup nhất. Anh là đội trưởng đội tuyển Mexico tham dự các kì World Cup: 2002, 2006, 2010, 2014 và 2018.

Sự nghiệp câu lạc bộ

Atlas

Márquez bắt đầu sự nghiệp bóng đá chuyên nghiệp của mình tại câu lạc bộ bóng đá México Atlas Guadalajara, nơi anh có màn ra mắt vào năm 1996 khi chỉ mới 17 tuổi. Năm 1999, anh cùng đội bóng giành được ngôi vị á quân Giải Ngoại hạng Mexico sau thất bại trước Deportivo Toluca.

Monaco

Sau khi có tổng cộng 77 trận đấu tại Atlas, Márquez chuyển đến Pháp thi đấu cho Monaco. Năm 1999, Monaco đã mua Márquez với giá 7 triệu €. Các tuyển trạch viên của Monaco đã phát hiện ra anh khi xem giải đấu Copa América. Mùa giải đầu tiên cùng với Monaco đã kết thúc với chức vô địch Ligue 1. Sau đó, anh còn cùng câu lạc bộ giành thêm chức vô địch Siêu cúp bóng đá Pháp 2000 và Cúp Liên đoàn bóng đá Pháp 2002-03.

Barcelona

Sau bốn năm tại Monaco, anh chuyển về thi đấu cho FC Barcelona ở mùa giải 2003-04 với phí chuyển nhượng 5 triệu € theo bản hợp đồng có thời hạn 4 năm, với nhiệm vụ lấp chỗ trống ở tuyến phòng ngự đội bóng này sau sự ra đi của Frank De Boer.

Anh là người Mexico đầu tiên khoác áo FC Barcelona. Trong mùa giải đầu tiên, anh đã ra sân trong 21 trận và cùng Barca giành ngôi á quân La Liga. Trong mùa giải thứ hai của mình, Marquez chủ yếu chơi như một tiền vệ phòng ngự do lần lượt Thiago Motta, Edmílson và Gerard López chấn thương. Tuy nhiên, anh đã thi đấu xuất sắc trong mùa giải này và góp phần vào chức vô địch La Liga lần thứ 17 của Barcelona sau trận hòa 1-1 với Levante ngày 14 tháng 5 năm 2005.

Năm 2006, anh đã có mặt trong trận chung kết UEFA Champions League gặp Arsenal và trở thành cầu thủ Mexico đầu tiên chơi trận chung kết ở giải đấu này. Chung cuộc Barcelona thắng Arsenal 2-1 và Márquez cũng trở thành người Mexico đầu tiên giành chức vô địch UEFA Champions League. Sau World Cup 2006, Marquez đã ký hợp đồng mới trong bốn năm, trị giá 38,5 triệu € có thời hạn đến tháng 6 năm 2010. Tại mùa giải 2007-08, Márquez đá cặp với cầu thủ mới của Barca, Gabriel Milito, trong thời gian đội trưởng Carles Puyol bị chấn thương. Kết thúc mùa giải này, Barcelona chỉ về thứ 3 tại La Liga và Márquez bị chấn thương hành hạ cả nửa sau mùa giải.

Sau khi huấn luyện viên Josep Guardiola lên nắm đội, Márquez vẫn được trọng dụng và sau khi Ronaldinho ra đi, anh trở thành cầu thủ cuối cùng dưới thời Rijkaard còn thi đấu cho đội. Ở mùa giải 2008-09, anh luôn có mặt trong đội hình chính thức ở vị trí trung vệ. Ngày 13 tháng 12 năm 2008, Márquez có trận đấu thứ 200 cho Barcelona trong trận thắng 2-0 trước Real Madrid. Ngày 28 tháng 4 năm 2009, trong trận bán kết UEFA Champions League với Chelsea, Márquez bị chấn thương nặng phải rời sân ở đầu hiệp 2. Sau trận đấu, anh được khuyên phải tiến hành phẫu thuật chân trái và phải nghỉ thi đấu đến hết mùa.

Sau khi cùng Barcelona giành cú ăn ba, Márquez nhận được lời đề nghị chuyển nhượng từ câu lạc bộ Ý Fiorentina. Tuy nhiên, anh đã từ chối vì muốn kết thúc sự nghiệp tại Barcelona mặc dù hợp đồng giữa anh và câu lạc bộ sẽ hết hạn vào mùa hè 2010. Tháng 11 năm 2009, Márquez đã gia hạn hợp đồng với Barca đến tận năm 2012. Số tiền giải phóng hợp đồng của anh lên đến 150,4 triệu $. Ngày 20 tháng 2 năm 2010, anh ghi bàn nâng tỉ số lên 3-0 từ một quả đá phạt trong chiến thắng 4-0 trước Racing Santander tại La Liga.

Trong khoảng thời gian thi đấu cho Barcelona, anh trở thành một trong những cầu thủ nước ngoài thành công nhất. Tổng cộng anh giành được 12 danh hiệu, ghi được 13 bàn thắng trong 242 trận, giúp anh trở thành cầu thủ không phải châu Âu có số trận thi đấu nhiều nhất lịch sử câu lạc bộ, đồng thời đứng thứ 8 trong danh sách những cầu thủ nước ngoài chơi nhiều trận nhất.

New York Red Bulls

Sau 7 năm gắn bó với Barcelona, Márquez chuyển đến câu lạc bộ New York Red Bulls tại Giải bóng đá nhà nghề Mỹ (MLS) để tái hợp với người đồng đội cũ ở Barca là Thierry Henry. Ngày 1 tháng 8 năm 2010, Márquez chính thức ký hợp đồng với New York Red Bull. Tại đây, anh khoác áo số 4.

Ngày 8 tháng 8, Márquez có trận đấu đầu tiên tại MLS, hòa Chicago Fire 0-0. Ngày 21 tháng 8, anh có bàn thắng đầu tiên cho Red Bulls trong chiến thắng 4-1 trước Toronto FC. Hai tháng sau đó, Márquez có mặt trong chiến thắng 2-0 của Red Bulls trước New England Revolution để giành chức vô địch khu vực phía Đông Giải Bóng đá Nhà nghề Mỹ 2010.

Ngày 30 tháng 10 năm 2011, trong trận tứ kết lượt đi MLS với Los Angeles Galaxy, Márquez phải hứng chịu làn sóng chỉ trích lớn khi trong những phút cuối trận, anh đã cầm bóng ném thẳng vào người tiền đạo Landon Donovan, gây nên một vụ ẩu đả và do đó đã lãnh thẻ đỏ trực tiếp cùng với án phạt cấm thi đấu ba trận. Ngày 14 tháng 1 năm 2012, trong trận đấu với San Jose Earthquakes, Márquez đã có hành vi tắc bóng từ phía sau và đá vào mặt cầu thủ Shea Salinas khiến anh này bị gãy xương đòn. Hành động này của Márquez khiến anh phải chịu một số tiền phạt không được tiết lộ và bị cấm thi đấu 3 trận.

New York đã chấm dứt hợp đồng với Márquez vào ngày 13 tháng 12 năm 2012.

León

Ngay sau khi rời New York Red Bulls, Márquez đã ký hợp đồng với câu lạc bộ Mexico León, chính thức trở về quê nhà sau 13 năm. Ngày 5 tháng 10 năm 2013, anh có bàn thắng đầu tiên cho León từ chấm phạt đền trong trận đấu với Puebla.

Ngày 15 tháng 12, León có được danh hiệu Apertura năm 2013 sau khi đánh bại América 5–1 sau hai lượt trận với Márquez là đội trưởng đội bóng. Cá nhân Márquez cũng có được danh hiệu vô địch giải bóng đá quốc gia Mexico lần đầu tiên trong sự nghiệp.

Sự nghiệp đội tuyển quốc gia

Márquez có trận đấu đầu tiên cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Mexico vào ngày 5 tháng 2 năm 1997 trong trận thắng 3-1 trước Ecuador nhưng sau đó đã không được triệu tập vào đội tuyển tham dự World Cup 1998.

Márquez đã cùng đội tuyển Mexico giành cúp vô địch Confederations Cup 1999. Tại World Cup 2002 ở Nhật Bản và Hàn Quốc, anh đã được huấn luyện viên Javier Aguirre chọn làm đội trưởng đội tuyển khi mới 23 tuổi. Tại giải đấu này, Mexico phải dừng bước ở vòng 16 đội khi thua đội tuyển Mỹ 2-0. Trong trận này, ở phút 86, Marquez còn bị phạt thẻ đỏ do phạm lỗi ác ý đối với Cobi Jones.

Márquez sau đó tiếp tục được huấn luyện viên Ricardo Lavolpe chọn làm đội trưởng của đội tuyển Mexico tại World Cup 2006 tổ chức tại Đức. Tại giải đấu này, anh đã ghi bàn mở tỉ số ở ngay phút thứ 5 trong trận thua 2-1 trước Argentina tại vòng 16 đội. Márquez sau đó còn tiếp tục tham dự CONCACAF Gold Cup 2007 và Copa América 2007.

Tại World Cup 2010, Márquez đã kịp trở lại tập luyện sau chấn thương để có thể kịp ra sân trong trận khai mạc với chủ nhà Nam Phi. Anh cũng trở thành người ghi bàn đầu tiên cho tuyển Mexico tại giải đấu này với bàn gỡ hoà 1-1 ở phút 79 từ đường chuyền của Andrés Guardado. Trong chiến thắng 2-0 sau đó trước đội tuyển Pháp, anh cũng là người đã kiến thiết cho tiền đạo Javier Hernández Balcázar ghi bàn mở tỉ số của trận đấu.

Ngày 29 tháng 3 năm 2011, Márquez trở thành cầu thủ thứ tám trong lịch sử của Mexico đạt đến ngưỡng 100 lần khoác áo đội tuyển quốc gia trong trận hòa 1-1 giữa Mexico và Venezuela. Anh góp một bàn trong chiến thắng 5-1 của Mexico trước New Zealand tại trận play-off liên lục địa giành quyền tham dự World Cup 2014.

Tại World Cup 2014 tổ chức ở Brasil, dù đã 35 tuổi, anh vẫn có tên trong danh sách chính thức 23 cầu thủ Mexico tham dự giải đấu này. Trong trận Mexico thắng Cameroon 1 - 0 tại trận mở màn của Mexico tại Giải vô địch bóng đá thế giới 2014, Márquez trở thành cầu thủ đầu tiên đeo băng đội trưởng tại bốn vòng chung kết World Cup khác nhau.

Trong trận cuối cùng của vòng bảng với Croatia, Márquez đã có cú đánh đầu hiểm hóc mở tỉ số và chung cuộc Mexico đã thắng Croatia 3-1 để lần thứ sáu liên tiếp lọt vào vòng đấu loại trực tiếp của World Cup. Bàn thắng này cũng giúp Márquez trở thành cầu thủ Mexico đầu tiên ghi bàn tại ba kỳ World Cup liên tiếp và là cầu thủ Mexico thứ hai sau Cuauhtémoc Blanco ghi bàn tại ba kỳ World Cup. Anh được FIFA bầu chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất trận.

Đến trận đấu vòng 1/8 với Hà Lan, dù thi đấu xuất sắc trong phần lớn thời gian trận đấu, anh đã có pha va phạm trong vòng cấm đối với Arjen Robben dẫn đến quả đá phạt đền mà từ đó Klaas-Jan Huntelaar đã ấn định chiến thắng 2-1 cho Hà Lan. Đây cũng là lần thứ sáu liên tiếp Mexico bị loại ở vòng 1/8.

Sau kì World Cup 2018 đáng thất vọng của México (lần thứ 6 liên tiếp dừng bước ở vòng 16 đội), Rafael Márquez tuyên bố kết thúc sự nghiệp thi đấu quốc tế sau 21 năm gắn bó, tổng cộng anh đã thi đấu 148 trận và ghi được 18 bàn thắng.

Cuộc sống cá nhân

Cha của anh, Rafael Márquez Esqueda cũng là cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp tại Mexico. Anh kết hôn với nữ diễn viên Adriana Lavat vào tháng 12 năm 2001 và có hai con, Santiago Rafael và Rafaela, trước khi ly dị vào năm 2007. Sau đó, anh kết hôn với Jaydy Michel, vợ cũ của ca sĩ Alejandro Sanz.

Thống kê sự nghiệp

Câu lạc bộ

Đội tuyển quốc gia

Bàn thắng quốc tế

:Scores and results list Mexico's goal tally first.

Danh hiệu

Câu lạc bộ

Monaco

Ligue 1 (1): 1999–2000 Coupe de la Ligue (1): 2003 *Trophée des Champions (1): 2000

Barcelona

La Liga (4): 2004–05, 2005–06, 2008–09, 2009–10 Copa del Rey (1): 2008–09 Supercopa de España (3): 2005, 2006, 2009 UEFA Champions League (2): 2005–06, 2008–09 UEFA Super Cup (1): 2009 FIFA Club World Cup (1): 2009

New York Red Bulls

*Giải Bóng đá Nhà nghề Mỹ (khu vực phía Đông) (1): 2010

León

*Liga MX (2): 2013, 2014

Quốc tế

FIFA Confederations Cup (1): 1999 CONCACAF Gold Cup (2): 2003, 2011

Cá nhân

Hậu vệ xuất sắc nhất Ligue 1 mùa giải 1999-2000. Cầu thủ xuất sắc nhất Bắc Mĩ năm 2005 Cầu thủ nổi tiếng thứ ba thế giới vào năm 2006. Vô địch giải đá phạt thế giới 2008.

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Rafael Márquez Álvarez** (; sinh ngày 13 tháng 2, 1979 tại Zamora de Hidalgo, Michoacán) là một cựu cầu thủ bóng đá và huấn luyện viên người México. Anh thi đấu ở vị trí trung
**Giải vô địch bóng đá thế giới 2014** (hay **Cúp bóng đá thế giới 2014**, tiếng Anh: _2014 FIFA World Cup,_ tiếng Bồ Đào Nha Brasil: _Copa do Mundo da FIFA Brasil 2014_) là lần
35 đội bóng thành viên của Liên đoàn bóng đá Bắc, Trung Mỹ và Caribe (CONCACAF) sẽ thi đấu tranh 3,5 suất tham dự vòng chung kết giải vô địch bóng đá thế giới 2010.
Bài viết sau đây là tóm tắt của các trận đấu ở vòng 3, **vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2010 khu vực Bắc, Trung Mỹ và Caribe**. 12 đội tuyển vượt
**Cúp Vàng CONCACAF 2011** là Cúp Vàng CONCACAF lần thứ 11 do CONCACAF tổ chức. Giải đấu được diễn ra tại Hoa Kỳ từ 5 đến 25 tháng 6 năm 2011. Giải đấu có 12
**México** ( , phiên âm: "Mê-hi-cô", tiếng Nahuatl: _Mēxihco_), cũng thường viết không dấu là **Mexico**, tên chính thức là **Hợp chúng quốc México** (, ), là một nước cộng hòa liên bang thuộc khu
**Câu lạc bộ bóng đá Barcelona** (), thường được biết đến với tên gọi tắt **Barcelona**, hay đơn giản là **Barça** (), là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp có trụ sở tại
_Bài chi tiết_: Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2014 thumb| **Vòng loại khu vực CONCACAF** cho World Cup 2014 bao gồm bốn vòng đấu, trong đó 35 thành viên liên đoàn
thumb|Chiếc [[cúp FIFA World Cup.]] **Giải vô địch bóng đá thế giới**, hay còn gọi là **Cúp bóng đá thế giới**, tên chính thức là **FIFA World Cup**, thường được gọi đơn giản là **World
**Giải vô địch bóng đá thế giới 2006** (hay **Cúp bóng đá thế giới 2006**, _,_ ) là lần tổ chức thứ 18 của giải vô địch bóng đá thế giới, diễn ra tại 12
**Ruddy Lilian Thuram-Ulien** (; sinh ngày 1 tháng 1 năm 1972) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp từng chơi ở vị trí hậu vệ. Ông bắt đầu chơi bóng chuyên
300x300px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 1 * 1 tháng 1: **Hoa Kỳ và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thiết lập quan hệ ngoại giao. **Hans Hürlimann trở thành tổng thống Thụy Sĩ **Hoa
**José Martín Cáceres Silva** (sinh ngày 7 tháng 4 năm 1987 tại Montevideo) là cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Uruguay, hiện đang thi đấu tại câu lạc bộ LA Galaxy và đội tuyển
**Javier Hernández Balcázar** (, sinh ngày 1 tháng 6 năm 1988), hay còn được biết tới với biệt danh **Chicharito** là một cầu thủ bóng đá người México hiện đang chơi ở vị trí tiền
**Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2014 (play-off liên lục địa)** là giai đoạn cuối cùng của Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2014. Vòng này bao gồm 4
**Giải vô địch bóng đá trẻ thế giới 1999** tổ chức tại Nigeria từ ngày 3 đến ngày 24 tháng 4 năm 1999. Đây là lần thứ 12 giải đấu được tổ chức. ## Vòng
Đây là thống kê cho Giải vô địch bóng đá thế giới 2018, diễn ra ở Nga từ ngày 14 tháng 6 đến ngày 15 tháng 7 năm 2018. Cầu thủ ghi bàn từ loạt
**Cúp Vàng CONCACAF 2000** là Cúp bóng đá Bắc, Trung Mỹ và Caribe lần thứ 5, do CONCACAF tổ chức. Giải đấu được diễn ra tại Hoa Kỳ từ 12 đến 27 tháng 2 năm
**Vòng 5** của vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2018 khu vực Bắc, Trung Mỹ và Caribe diễn ra từ ngày 7 tháng 11 năm 2016 đến ngày 10 tháng 10 năm
**Môn bóng đá nam tại Thế vận hội Mùa hè 2004** được tổ chức tại Athens và bốn thành phố khác ở Hy Lạp từ ngày 11 đến ngày 28 tháng 8. 16 đội tuyển
**Guillermo Alberto Santiago Lasso Mendoza** (sinh ngày 16 tháng 11 năm 1955) là một doanh nhân và chính trị gia người Ecuador, từng là tổng thống của Ecuador từ năm 2021 đến năm 2023. Ông
| imagesize = | alt = | incumbent = ''Tranh chấp | incumbentsince = | style = Ngài | appointer = | termlength = Sáu năm | formation = 13 tháng 1, 1830 | inaugural
phải|nhỏ|[[Nhà Nariño, nơi cư trú và trung tâm của chính quyền chính thức của tổng thống]] Đây là **danh sách các tổng thống Colombia**. Theo Hiến pháp Colombia năm 1991, các Tổng thống Colombia là
**Sonia Chocrón** (sinh ngày 17 tháng 3 năm 1961 tại Caracas) là một nhà thơ, tiểu thuyết gia, nhà biên kịch và nhà viết kịch người Venezuela gốc Sephardic. Cô có liên quan đến nhà
|- | align="center" colspan="2" | Bài ca của Trujillo |- | align="center" colspan="2" | ''Khẩu hiệu: không có |- | colspan="2" style="background-color: #ffffff; text-align: center;" | Vị trí bang }
_Vị trí trong Venezuela_ |-
Bài viết sau đây là tóm tắt của các trận đấu ở vòng 2, **vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2010 khu vực Bắc, Trung Mỹ và Caribe**. Tại vòng 2, 11
**Alicia Freilich** (sinh ngày 15 tháng 3 năm 1939) là một nhà văn, tiểu thuyết gia, nhà báo và nhà giáo dục người Venezuela. ## Tuổi thơ Sinh ra ở Caracas, Alicia Freilich là con
**Salvador Cisneros y Betancourt** (10 tháng 2 năm 1828 – 28 tháng 2 năm 1914) là nhà cách mạng và chính khách Cuba, đồng thời là người Cuba duy nhất trở thành Tổng thống Cộng
**Bộ Ngoại giao** (), viết tắt **MINREX**, là cơ quan chính phủ Cuba chịu trách nhiệm giám sát quan hệ đối ngoại của Cuba. Bộ này được thành lập vào ngày 23 tháng 12 năm
**Vòng 4** của vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2018 khu vực Bắc, Trung Mỹ và Caribe diễn ra từ ngày 7 tháng 11 năm 2015 đến ngày 6 tháng 9 năm