✨Protoceratops
Chi Khủng long tiền sừng (danh pháp khoa học: Protoceratops, nghĩa là 'mặt sừng đầu tiên', có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp proto-/πρωτο- nghĩa là 'đầu tiên', cerat-/κερατ- nghĩa là 'sừng' và -ops/-ωψ nghĩa là 'mặt') là một chi khủng long ăn cỏ thuộc họ Khủng long tiền sừng (Protoceratopsidae), một nhóm các loài khủng long có sừng thời kỳ đầu, có kích thước dài độ 1,5-2,0 m (5-6,5 ft) và cao độ 0,6 m (2 ft) tính tới vai. Một con lớn hoàn toàn có thể nặng gần 400 pound (180 kg) Một số lượng lớn tiêu bản được tìm thấy với độ tập trung cao cho rằng Protoceratops ăn cỏ. Kích thước và hình dạng chính xác của diềm xếp nếp cổ thay đổi tùy theo từng cá thể; một số có các diềm xếp nếp ngắn và gọn gàng trong khi những mẫu vật khác lại có diềm xếp nếp với độ dài gần một nửa chiều dài hộp sọ. Diềm xếp nếp chủ yếu bao gồm xương đỉnh và một phần của xương vảy. Một số nhà nghiên cứu, như Peter Dodson.
Walter Granger và W.K. Gregory miêu tả chính thức loài điển hình (P. andrewsi) năm 1923, một tên gọi để ghi công Roy Chapman Andrews. Các hóa thạch này có niên đại từ tầng Champagne thuộc thống Thượng Creta (83,5 tới 70,6 Ma). Các nhà nghiên cứu ngay lập tức nhận thấy tầm quan trọng của các phát hiện về Protoceratops, và chi này đã được coi như là "tổ tiên tìm kiếm từ lâu của Triceratops"
Năm 1975, các nhà cổ sinh vật học người Ba Lan là Teresa Maryanska và Halszka Osmólska đã miêu tả loài thứ hai của chi Protoceratops, từ tầng Champagne tại Mông Cổ và họ đặt tên cho nó là P. kozlowskii. Tuy nhiên, các hóa thạch lại bao gồm các phần sót lại của một con non chưa phát triển đầy đủ và hiện nay nó được coi là từ đồng nghĩa của Bagaceratops rozhdestvenskyi.
Năm 2001, loài hợp lệ thứ hai, P. hellenikorhinus, đã được đặt tên cho hóa thạch từ thành hệ Bayan Mandahu tại Nội Mông Cổ, Trung Quốcvà cũng có niên đại từ tầng Champagne của thống Thượng Creta. Nó lớn hơn đáng kể so với P. andrewsi, có diềm xếp nếp khác biệt một chút và có các sừng gò má to khỏe hơn. Cung xương phía trên các lỗ mũi của nó có 2 sừng mũi nhỏ và nó không có răng tại phần trước của mõm.
Sinh sản
nhỏ|phải|Hộp sọ của Protoceratops ở dạng phôi thai. Trong thập niên 1920, Roy Chapman Andrews đã phát hiện ra các trứng khủng long hóa thạch đầu tiên đã biết trong sa mạc Gobi ở Mông Cổ. Mỗi trứng dài khoảng 20 cm (8 inch) và con non mới sinh ra có lẽ dài khoảng 30 cm (1 ft). Do sự cận kề và độ phổ biến của Protoceratops, các trứng này vào thời đó được cho là của chi này. nhỏ|trái|Protoceratops non mới nở. Chi khủng long chân thú cùng thời Oviraptor được cho là ăn trứng của Protoceratops do sự phát hiện bộ xương của Oviraptor ngay trong tổ. Hộp sọ của nó bị nghiền nát và người ta cho rằng vết thương mà nó nhận được là do con Protoceratops mẹ hung dữ đang bảo vệ tổ của mình trước những kẻ ăn thịt.
Tuy nhiên, năm 1993, Norrell và ctv. đã phát hiện một bào thai bên trong trứng được coi là của Protoceratops. Bào thai này, khi kiểm tra kỹ, hóa ra lại là của Oviraptor. Phát hiện ban đầu trên thực tế là một ổ trứng của Oviraptor chứ không phải thể hiện một cố gắng nhằm ăn trứng bị thất bại.
Phát sinh loài
Protoceratops là khủng long tiền sừng đầu tiên được đặt tên và vì thế nó là nguồn phát sinh tên gọi cho họ Protoceratopsidae, một nhóm khủng long ăn cỏ đã tiến hóa đến mức không thể còn coi là khủng long mỏ vẹt (nhóm Psittacosauridae), nhưng lại là quá nguyên thủy để có thể coi là khủng long sừng (nhóm Ceratopsidae). Nhóm này được đặc trưng bằng các điểm tương đồng với Ceratopsidae nhưng với các tỷ lệ của chi thích nghi với việc chạy nhiều hơn, các diềm xếp nếp nói chung nhỏ hơn và thiếu các sừng lớn.
Năm 1998, Paul Sereno định nghĩa họ Protoceratopsidae như là một nhánh thân cây bao gồm "tất cả các dạng Coronosauria gần gũi với Protoceratops hơn là so với Triceratops". Một số nghiên cứu đặt các chi Bagaceratops, Breviceratops, Graciliceratops, Lamaceratops, Magnirostris, Platyceratops và Serendipaceratops trong họ Protoceratopsidae, nhưng vào năm 2006, Makovicky và Norell đã công bố cây phát sinh loài mới, trong đó loại bỏ vài chi ra khỏi họ Protoceratopsidae; một vài cây phát sinh loài khác cũng tồn tại. Bainoceratops có thể là từ đồng nghĩa muộn của Protoceratops.
Nguồn gốc của huyền thoại quái vật sư tử đầu chim
Nhà nghiên cứu văn học dân gian và nhà khoa học sử Adrienne Mayor của Đại học Stanford đã gợi ý rằng các bộ xương hóa thạch được bảo tồn tốt của Protoceratops và các dạng khủng long có mỏ khác, được các bộ lạc du mục Scythia tìm thấy trong khi khai thác vàng trong khu vực dãy núi Thiên Sơn và Altai ở Trung Á, có thể là nguồn gốc của hình ảnh về sinh vật huyền bí được gọi là quái vật sư tử đầu chim (griffin). Quái vật này được miêu tả như là động vật bốn chân kích cỡ sư tử với các móng vuốt lớn và mỏ giống như mỏ chim ăn thịt; chúng đẻ trứng trong tổ trên mặt đất.
Những người Hy Lạp đã bắt đầu miêu tả griffin vào khoảng năm 675 TCN, vào cùng khoảng thời gian mà người Hy Lạp có những tiếp xúc đầu tiên với các bộ lạc du mục Scythia. Griffin được miêu tả như là bảo vệ cho các mỏ vàng trong các vùng đồi khô cằn và các thành hệ sa thạch đỏ của vùng hoang vu. Khu vực Mông Cổ và Trung Quốc nơi có nhiều hóa thạch Protoceratops cũng là nơi có nhiều mỏ vàng từ các dãy núi cận kề, làm cho giả thuyết về nguồn gốc của huyền thoại quái vật sư tử đầu chim này có một độ tin cậy nhất định.