✨Phong trào Ngũ tuần

Phong trào Ngũ tuần

Phong trào Ngũ tuần hoặc Phong trào Thất tuần (theo cách gọi của các tín hữu Tin Lành) là một trào lưu Tin Lành tập chú vào trải nghiệm cá nhân nhận lãnh sự thanh Tẩy (báp têm) bằng Chúa Thánh Linh như được ký thuật trong Tân Ước về ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống (Lễ Ngũ Tuần- tiếng Hy Lạp: πεντηκοστή/pentekostē, nghĩa là năm mươi ngày sau Lễ Vượt qua). Có một số tương đồng giữa Phong trào Ngũ Tuần và Phong trào Ân tứ, nhưng trong khi tín hữu thuộc Phong trào Ân tứ vẫn duy trì sinh hoạt tại các giáo đoàn cũ thì tín hữu Ngũ tuần lại tách ra để thành lập các giáo phái Ngũ tuần (giáo hội Phúc âm Ngũ tuần). Đa số các tín hữu Ngũ Tuần tin theo giáo lý Ba Ngôi (Tam vị nhất thể), số còn lại là các tín hữu thuộc phong trào Ngũ tuần Nhất thể (Oneness Pentecostalism).

Thần học

Mạng lưới này quảng bá mạnh mẽ các giáo lý của Phong trào Cải cách Tông đồ Mới (NAR), một phong trào tân ân tứ và của Paul Cain (1929–2019), mục sư Cơ đốc giáo Ngũ Tuần [ 13 Phần lớn tín hữu Ngũ Tuần tin rằng cần phải chấp nhận những giáo huấn của Chúa Giê-xu được chép trong Kinh Thánh để được cứu rỗi và được vào Thiên đàng, tức là những giáo lý như sự chết của Chúa Giê-xu trên thập tự giá, sự phục sinh của Chúa Giê-xu, và sự ăn năn tội. Họ tin rằng cứu rỗi là sự ban cho từ Thiên Chúa mà con người có thể nhận lãnh qua đức tin vào Chúa Giê-xu, chứ không phải bởi công đức. Tín hữu Ngũ Tuần xác tín rằng Kinh Thánh là thẩm quyền tối hậu trong lĩnh vực đức tin. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều tranh luận về những giáo thuyết đặc thù của Ngũ Tuần như việc nói các thứ tiếng và báp têm trong Chúa Thánh Linh, mở ra những tra vấn về sự cần thiết của những điều này đối với sự cứu rỗi của mỗi cá nhân.

Nhiều người thuộc Phong trào Ngũ Tuần vẫn tiếp tục duy trì xác tín rằng việc nói các thứ tiếng là dấu hiệu của người được "báp-têm trong Thánh Linh", nhưng trải nghiệm này không được xem là cần phải có để có thể nhận lãnh sự cứu chuộc. Đối với nhiều người khác, báp-têm trong Thánh Linh chỉ được xem là một trải nghiệm phụ theo sau quyết định tiếp nhận Chúa Giê-xu để được cứu rỗi, và tin rằng sự cứu rỗi của mỗi cá nhân không phụ thuộc vào việc người ấy có nói được các thứ tiếng hay không. Trong thực tế, ngày càng có nhiều tín hữu Ngũ Tuần không còn hoặc bớt quan tâm đến việc tìm kiếm và thực hành "ân tứ" này.

Mặt khác, một số giáo phái Ngũ Tuần vẫn tiếp tục tập chú vào thông điệp cứu rỗi chép trong Công vụ các Sứ đồ 2:38, nhấn mạnh đến sự hối cải, chịu lễ báp têm trong danh của Chúa Giê-xu, rồi tiếp đến là trải nghiệm "báp têm trong Thánh Linh". Theo quan điểm này, trải nghiệm nhận lãnh Chúa Thánh Linh là điều kiện cần thiết cho sự cứu rỗi, và cần phải đi kèm với khả năng nói các thứ tiếng. Đối với họ, bất cứ ai không thể nói các thứ tiếng đều là người chưa được cứu.

Hầu hết tín hữu Ngũ Tuần tin rằng khả năng nói các thứ tiếng phục vụ hai chức năng riêng biệt: Chức năng đầu liên quan đến việc cầu nguyện, và chỉ xảy ra ở phạm vi cá nhân. Trong sự tương giao giữa tín hữu với Thiên Chúa, họ sẽ nói một loại ngôn ngữ mà chính họ cũng không thể hiểu. Theo quan điểm này, chúng không cần thiết phải là một trong những ngôn ngữ được sử dụng trên đất, đúng hơn là một loại ngôn ngữ chỉ hiện hữu trong sự thông công giữa cá nhân với Thiên Chúa. Do đó, khả năng này được xem là Glossolalia (Tiếng Lạ). Tín hữu Ngũ Tuần thực hành việc nói tiếng lạ dựa trên cách luận giải của họ về câu Kinh Thánh 1Corinthians 14:2, Chức năng thứ hai liên quan đến vai trò của khả năng nói các thứ tiếng trong cộng đồng giáo hội. Tín hữu Ngũ Tuần tin rằng qua Chúa Thánh Linh, Thiên Chúa thông công với hội thánh, không chỉ trong hiện tượng nói các thứ tiếng, mà còn bằng các phương tiện khác chẳng hạn như ân tứ nói tiên tri. Những hiện tượng này được xếp vào phạm trù ân tứ thuộc linh. Khi một người nói các thứ tiếng trong các buổi nhóm của giáo đoàn, cần có một người khác có thể thông dịch ngôn ngữ ấy. Mặt khác, một số tín hữu Ngũ Tuần tin rằng một người có thể nói một ngôn ngữ mà người ấy chưa từng biết, mà những người sử dụng ngôn ngữ ấy có thể hiểu được. Hiện tượng này được gọi là Xenoglossy (nói một ngoại ngữ trong vô thức). Tuy nhiên, có nhiều tranh cãi về tính xác thực của các ngoại ngữ được sử dụng trong hiện tượng này.

Trong khi hiện tượng nói các thứ tiếng được xem là trọng tâm của thần học Ngũ Tuần, tín hữu Ngũ Tuần cũng thừa nhận các ân tứ siêu nhiên khác đến từ Chúa Thánh Linh. Họ cũng tin rằng không phải tất cả tín hữu Cơ Đốc đều được nhận lãnh các ân tứ này. Trong số đó, có các ân tứ thường được nhắc đến như lời khôn ngoan (khả năng cung ứng các hướng dẫn tâm linh), lời tri thức (truyền đạt những thông tin chính xác từ Thánh Linh), đức tin, chữa bệnh, làm phép lạ, nói tiên tri (công bố thông điệp của Thiên Chúa, không nhất thiết là biết trước một sự việc sẽ xảy ra), phân biệt các linh (khả năng phân biệt tà linh với Thánh Linh), nói các thứ tiếng, và thông dịch các thứ tiếng.

Ngoài "ân tứ" nói các thứ tiếng, từng là một trong những đặc điểm nối kết các giáo phái Ngũ Tuần, thì hiện nay ân tứ làm phép lạ, nhất là chữa bệnh bằng đức tin, và phúc âm hưng thịnh là những giáo thuyết vẫn tiếp tục duy trì ảnh hưởng thống trị trong cộng đồng Ngũ Tuần.

Theo một cuộc khảo sát năm 2006 của Pew Forum on Religion and Public Life, "Trong 10 quốc gia được khảo sát, đa số tuyệt đối tín hữu Ngũ Tuần (từ 56% ở Hàn Quốc đến 87% ở Kenya) nói rằng họ từng có trải nghiệm hoặc chứng khiến việc chữa bệnh bằng đức tin." Tại những nước được khảo sát, không tính Hoa Kỳ và Hàn Quốc, tỷ lệ này là trên 70%. Trong ngày ấy, Chúa Thánh Linh ban cho mười một sứ đồ khả năng nói các thứ tiếng. Tín hữu Ngũ Tuần cũng nhìn xem hội thánh tại Corinth thời xưa là hình mẫu về việc thực hành các ân tứ ấy. Họ tin rằng hội thánh Ngũ Tuần ngày nay là phiên bản đương đại của hội thánh tiên khởi trong Tân Ước. Tuy nhiên, các nhà luận giải Kinh Thánh chỉ ra rằng, những gì xảy ra trong ngày Lễ Ngũ Tuần là những trải nghiệm đột nhiên, bất khả kháng, và nhất thời, trong khi các tín hữu ở Corinth cố biến chúng thành những trải nghiệm được thực hành thường xuyên có chủ đích. Cũng theo cách luận giải này, trong thư gởi tín hữu ở Corinth (chương 12-14), mục đích của Phao-lô là giúp cho họ hiểu rằng những "ân tứ" này không phải là các giá trị căn cốt cho sự cứu rỗi và giúp ích cho tăng trưởng đời sống tâm linh, và ông khuyên họ không nên quá chú tâm vào việc tìm kiếm các ân tứ ấy. Theo các nhà luận giải Kinh Thánh, giáo đoàn Corinth lúc ấy đang lâm vào tình trạng rối ren trong các phương diện tâm linh, thần học và đạo đức. Thành phố Corinth thời ấy là một trung tâm thương mại thịnh vượng, nổi tiếng với vật giá cao và các loại hình giải trí. Có lẽ một số tín hữu ở đó cũng bị tiêm nhiễm các tập quán ngoại giáo, bắt đầu lạm dụng các ân tứ để phục vụ lợi riêng, gây chia rẽ trong hội thánh cũng như phát sinh các thói xấu như kiêu ngạo, tự tôn, và tìm kiếm sự vinh hiển cho riêng mình. Sau khi nghiên cứu Kinh Thánh, nhiều người có mặt ở đó đi đến kết luận rằng nói các thứ tiếng là dấu hiệu của sự trải nghiệm báp têm trong Thánh Linh. Charles Parham, người sáng lập Trường Kinh Thánh Bethel, đến sinh sống tại Houston, Texas. Ở đây, William J. Seymour, một truyền đạo người Mỹ gốc Phi, được mời đến tham dự các lớp học Kinh Thánh của Parham. Về sau, Seymour đến Los Angeles và trở thành tác nhân khởi phát cuộc phục hưng ở Nhà thờ đường Azusa xảy ra trong tháng 4 năm 1906. Đây là một nhà thờ Giám Lý của người da đen. Sự kiện này được xem là thời điểm hình thành Phong trào Ngũ Tuần. Sự chú ý của báo giới ở Los Angeles đã góp phần đẩy mạnh sự phát triển của phong trào.

Đến cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970, nhiều tín hữu thuộc các giáo hội chính lưu (mainstream) ở Hoa Kỳ, Âu châu, và những nước khác trên thế giới bắt đầu chấp nhận báp têm trong Thánh Linh là trải nghiệm nên có trong đời sống tâm linh. Từ đó hình thành Phong trào Ân tứ, qui tụ nhiều người thuộc Anh giáo, Lutheran, Công giáo, và Giám Lý. Tuy nhiên, thay vì gia nhập các giáo phái Ngũ Tuần, những người này chủ trương ở lại và tiếp tục sinh hoạt trong giáo hội của mình.

Tập quán

nhỏ|phải|Các phụ nữ trong một buổi thờ phượng của phong trào Ngũ tuần Nhiều tín hữu Ngũ Tuần và Ân tứ tin rằng, ngoài khả năng nói các thứ tiếng, họ còn có những trải nghiệm tâm linh khác, thường được thể hiện trong các buổi nhóm của họ như: cười to tiếng, co giật, nhảy múa, hoặc kêu la, chạy, khóc lóc dữ dội, té ngã xuống sàn nhà dưới "quyền năng" của Chúa Thánh Linh (họ gọi là "bị giết trong Thánh Linh"), hay lăn lộn trên mặt đất.

Theo giải thích của tín hữu Ngũ Tuần, hiện tượng "bị giết trong Thánh Linh", hoặc té ngã xuống sàn nhà, xảy ra khi cơ thể con người không thể chống chọi nổi quyền năng của Thiên Chúa. Họ cho rằng có những trải nghiệm tương tự được chép trong Kinh Thánh như trường hợp của Saul trên đường xuống thành Damascus, Tiên tri Daniel, và Sứ đồ Giăng tại đảo Patmos.

Những người ủng hộ việc thể hiện các loại cảm xúc tôn giáo kể trên tin rằng đó là sự bày tỏ của Chúa Thánh Linh như được báo trước trong Cựu Ước, "Ta sẽ đổ Thần ta trên cả loài xác thịt; con trai và con gái các ngươi sẽ nói tiên trị; những người già cả các ngươi sẽ thấy chiêm bao, những kẻ trai trẻ các ngươi sẽ xem sự hiện thấy." Song, những người phản bác không đồng ý với cách ứng dụng câu Kinh Thánh này. Trái lại, họ xem hiện tượng đó là việc sẽ xảy ra "trong đời sau rốt, của những kẻ bội đạo mà theo các thần lừa dối, và đạo lý của quỷ dữ, bị lầm lạc bởi sự giả hình của các giáo sư dối…dùng những lời hư ngụy phàm tục..." Họ cũng viện dẫn giáo huấn của Phao-lô trong 1Corinthians 14: 32, 33 "Tâm thần của các đấng tiên tri suy phục các đấng tiên tri. Vả, Thiên Chúa chẳng phải là Chúa của sự loạn lạc, bèn là Chúa sự hòa bình.", nghĩa là mỗi tín hữu cần tự chủ và tôn trọng lẫn nhau để toàn thể hội thánh luôn được gìn giữ trong hòa bình và trật tự, không phải hỗn loạn. Cũng theo luận cứ này, tất cả ký thuật của Kinh Thánh về hiện tượng té ngã xuống đất trong quyền năng Thiên Chúa đều xuất phát từ lòng yêu mến và tôn kính dành cho Thiên Chúa, khi bất ngờ nhận biết sự hiện diện uy nghiêm của ngài. Đây là những trường hợp hiếm hoi chỉ xảy ra trong những biến cố mang ý nghĩa đặc biệt. Do đó, sẽ là một sự hiểu biết lệch lạc về các giáo huấn của Kinh Thánh khi tìm cách nhân rộng hiện tượng đặc biệt này thành tập quán cho số đông.

Phong trào Ân tứ

Từ cuối thập niên 1950, Phong trào Ân tứ (Charismatic Movement) đương đại, chịu ảnh hưởng từ Phong trào Ngũ Tuần, bắt đầu phát triển trong vòng các giáo phái chính lưu thuộc cộng đồng Kháng Cách, cũng như trong các giáo hội Anh giáo và Công giáo Rôma. Không giống tín hữu Ngũ Tuần, rời bỏ giáo hội để thành lập các giáo phái mới, những người thuộc phong trào Ân tứ ở lại với giáo hội theo phương châm "Hãy đơm bông kết trái ngay tại chỗ Thiên Chúa vun trồng bạn". Trong Giáo hội Công giáo Rôma, phong trào Canh tân Đặc sủng (Charismatic Renewal) được khởi phát vào năm 1967.

Có những nhà lãnh đạo tôn giáo giành được sự tôn trọng đặc biệt của các tín hữu Ngũ Tuần, Albert Benjamin Simpson là một trường hợp như thế. Trong thời kỳ tiên khởi, nhiều quản nhiệm và giáo sĩ Ngũ Tuần được đào tạo tại Học viện Truyền giáo do Simpson thành lập. Do đó, Simpson và Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp (C&MA) có nhiều ảnh hưởng trên phong trào Ngũ Tuần, đặc biệt là các giáo phái Assemblies of GodFoursquare Church, không chỉ trong tinh thần truyền bá phúc âm, các giáo thuyết, mà còn là các bài thánh ca do Simpson sáng tác, cùng thuật từ Gospel Tabernacle (Đền tạm Phúc âm), sau này, các nhà thờ Ngũ Tuần thường lấy tên Full Gospel Tabernacle. Charles Price Jones, một nhà lãnh đạo người Mỹ gốc Phi thuộc Phong trào Thánh khiết là một thí dụ khác. Những bài thánh ca của ông được sử dụng rộng rãi tại các giáo đoàn và các đại hội của giáo phái Church of God in Christ, cũng như trong các giáo phái Ngũ Tuần khác.

Số lượng thành viên

Khó có thể có con số chính xác số lượng thành viên các giáo phái Ngũ Tuần, do có sự khác biệt lớn giữa các ước tính từ các nguồn khác nhau. Có lẽ một phần là do người ta thường tính luôn những tín hữu thuộc các giáo hội khác có thiện cảm hoặc thực hành một số tập quán Ngũ Tuần vào con số chính thức. Ước tính đến năm 2000, có khoảng 115 triệu tín hữu Ngũ Tuần trên khắp thế giới. Các giáo đoàn Ngũ Tuần tăng trưởng mạnh tại những quốc gia đang phát triển, mặc dù quyền lãnh đạo các hội đoàn quốc tế vẫn ở trong tay các giáo hội ở Bắc Mỹ. Nhà thờ Yoi do Full Gospel ở Hàn Quốc được xem là giáo đoàn Ngũ Tuần lớn nhất thế giới, con số thành viên do nhà thờ này công bố là khoảng 830 000 (năm 2007), với 3 000 người gia nhập mỗi tháng. phải|Bên trong Nhà thờ Hillsong Church Tại Sydney, Úc, Nhà thờ Hillsong thuộc giáo phái Ngũ Tuần Hội chúng của Đức Chúa Trời (Asssemblies of God), là nhà thờ lớn nhất với hơn 20 000 người tham dự các lễ thờ phượng mỗi tuần. Giáo đoàn Hillsong nổi tiếng với chương trình âm nhạc Cơ Đốc, thờ phượng và tôn vinh Thiên Chúa. Những bài thánh ca và nhạc phúc âm của Hillsong được phổ biến tại nhiều nơi trên thế giới, một số là đĩa vàng và đĩa platium tại Úc.

Theo Ed Gitre, trong một bài viết đăng trên tạp chí Christianity Today, Phong trào Ngũ Tuần là "đức tin sinh động trong vòng người nghèo, tiếp cận đời sống thường nhật của tín hữu, cống hiến cho họ không chỉ niềm hi vọng mà còn là một lối sống mới...Các nhà thờ Ngũ Tuần rất thành công trong việc thu nạp thành viên là những người nghèo nhất từ trong giới dân nghèo." Thông điệp của những người Ngũ Tuần tập chú vào cuộc sống đời này, họ miêu tả Chúa Giê-xu là "một con người có thật và gần gũi; Ngài làm cho họ nhiều điều kỳ diệu giữa những thăng trầm của cuộc sống thường nhật. Ngài đuổi quỷ, đáp ứng những nhu cầu cụ thể như thức ăn, chỗ ở."

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Phong trào Ngũ tuần** hoặc **Phong trào Thất tuần** (theo cách gọi của các tín hữu Tin Lành) là một trào lưu Tin Lành tập chú vào trải nghiệm cá nhân nhận lãnh sự thanh
**Giáo hội Phúc Âm Ngũ tuần Việt Nam** (chữ Anh: _Assemblies of God of Vietnam_, viết tắt: AGVN), là một hệ phái Cơ Đốc giáo thuộc Phong trào Ngũ tuần đang hoạt động tại Việt
**Lời của Đức tin** là một trào lưu thuộc các giáo hội Ngũ Tuần và Ân tứ. Học thuyết trọng tâm của nhóm này, theo quan điểm của họ, là ý niệm cho rằng mọi
**Phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam** nhằm mục tiêu giành lại độc lập cho Việt Nam bắt đầu từ năm 1885 và kết thúc sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khi Đảng
Biểu trưng Phong trào Đại kết. **Phong trào Đại kết** đề cập tới những nỗ lực của các Kitô hữu hoặc các truyền thống giáo hội khác nhau nhằm phát triển mối quan hệ gần
nhỏ|Hình ảnh những người đang chào theo kiểu Quốc xã, trong khi một người không xác định danh tính tên August Landmesser từ chối làm như vậy. **Phong trào chống đối Hitler** gồm những hoạt
nhỏ|Một poster phản chiến nhỏ| Một [[Những biểu tượng hòa bình|biểu tượng hòa bình, ban đầu được thiết kế cho Chiến dịch giải trừ vũ khí hạt nhân (CND) của Anh ]] **Phong trào chống
phải|Nhà truyền thống phong trào Đồng Khởi ở huyện [[Mỏ Cày Nam, Bến Tre]] **Đồng Khởi** là phong trào do những thành viên Việt Minh ở lại miền Nam Việt Nam kêu gọi nhân dân
**Phong trào Minh Tân** (còn gọi là **phong trào Duy Tân ở Nam Kỳ**) do **Hội Minh Tân** (kể từ đây trở đi có khi gọi tắt là Hội) đề xướng và lãnh đạo, là
**Phong trào Giám lý** là một nhóm các giáo hội có mối quan hệ lịch sử với nhau thuộc cộng đồng Kháng Cách. Bắt nguồn từ cuộc chấn hưng tôn giáo khởi phát bởi John
**Phong trào Ái quốc Tam Tự** (chữ Anh: _Three-Self Patriotic Movement_), hoặc gọi **Hội Thánh Tam Tự**, là cơ quan giám sát chính thức của nhà nước đối với Tin Lành tại Trung Quốc. **Uỷ
Những cô gái mặc _[[Hán phục_.]]**Phong trào Phục hưng Hán phục** (; Hán-Việt: _Hán phục vận động_) là một phong trào xã hội tìm cách hồi sinh thời trang cổ của người Hán, được phát
**Hát cho đồng bào tôi nghe** hay **Hát cho đồng bào tôi nghe và nghe đồng bào tôi cùng hát** là 1 phong trào đấu tranh đòi hòa bình trong Chiến tranh Việt Nam dưới
**Phong trào Khôi phục Mười điều răn của Chúa** (_Movement for the Restoration of the Ten Commandments of God_) là một phong trào tôn giáo mới được thành lập do Credonia Mwerinde và Joseph Kibweteere
**Phong trào kết nghĩa Bắc – Nam** là một phong trào thi đua của một số tỉnh, thành phố Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Khởi động vào năm 1960, phong trào
**Phong trào Thánh khiết** qui tụ các tín hữu Cơ Đốc là những người xác tín và rao giảng đức tin cho rằng "bản chất xác thịt" của con người có thể được thanh tẩy
**Phong trào quyền động vật** (_Animal rights movement_) hay **phong trào bảo vệ quyền động vật** và đôi khi được gọi là **phong trào giải phóng động vật** hay **phong trào bảo vệ động vật**
nhỏ|phải|William Miller **Phong trào Phục lâm** là một trào lưu bắt đầu vào thế kỷ 19 trong bối cảnh của cuộc Đại Tỉnh thức lần thứ nhì tại Hoa Kỳ. Tên gọi này đề cập
**Các phong trào dân chủ tại Trung Quốc** là một loạt các phong trào chính trị được tổ chức lỏng lẻo, trong và ngoài Trung Quốc, chống lại sự hệ thống đơn đảng của Đảng
**Phong trào sinh viên Hoa Hướng Dương** (, còn được gọi là **Phong trào 318** (318學運 - _318 Xué yùn_), là sự kiện sinh viên Đài Loan biểu tình và chiếm tòa nhà của Lập
nhỏ|250x250px|Diễu hành tại Hồng Kông ngày 1 tháng 7 năm 2010 **Biểu tình ngày 1 tháng 7 tại Hồng Kông** () là một cuộc biểu tình thường niên do Mặt trận Nhân dân về Nhân
Trong Cơ Đốc giáo, thuật từ liên phái hoặc phi hệ phái (_non-denominational_) được dùng để chỉ những giáo đoàn không chịu thiết lập quan hệ chính thức với một hệ phái nào. Các giáo
thumb|Tuần hành ngày 21 tháng 2 năm 1952 tại [[Dhaka]] **Phong trào ngôn ngữ Bengal** là một phong trào chính trị tại Đông Bengal (nay là Bangladesh) chủ trương công nhận tiếng Bengal là một
**Mặt trận giải phóng động vật** (tiếng Anh: **Animal Liberation Front**) viết tắt là **ALF**, là một nhóm hoạt động quốc tế không người lãnh đạo của phong trào giải phóng động vật, tham gia
Một loạt các cuộc biểu tình chống phong tỏa COVID-19 đã bắt đầu ở Trung Quốc đại lục từ đầu tháng 11 năm 2022. Sự kiện còn được gọi với tên khác không chính thức
**Hội Thánh của Đức Chúa Trời**, còn gọi là **Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ**, là một phong trào tôn giáo mới bắt nguồn từ Hàn Quốc và hiện nay đã có mặt tại 185
nhỏ|Những người ủng hộ phong trào đòi sự thật về vụ 11 tháng 9 tại một cuộc biểu tình ở [[Los Angeles, tháng 10 năm 2007]] nhỏ|Hai người giữ một biểu ngữ của kiến trúc
nhỏ|Huy hiệu của [[Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam)|Hội Thánh Tin Lành Việt Nam.]] **Phúc âm toàn vẹn** (chữ Anh: _Full Gospel_ hoặc _Fourfold Gospel_), hoặc gọi **Tin Lành toàn vẹn**, **Tứ trùng
**Phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ** năm 1908 hay còn gọi là **Trung Kỳ dân biến** là một trong những sự kiện nổi bật của phong trào chống thực dân Pháp ở Việt Nam
**Phong trào Katip Sumat** là một phong trào mang tính thánh chiến Hồi giáo dẫn đến cuộc nổi dậy của người Chăm chống lại nhà Nguyễn vào năm 1833 cho đến khi bị đàn áp
**Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống** (hoặc **lễ Hiện xuống**, **lễ Giáng xuống**, **lễ Hạ trần, lễ Ngũ tuần**) là một ngày lễ của Kitô giáo được cử hành vào ngày thứ năm mươi bắt
**Phong trào 30 tháng 9** (, viết tắt: **G30S**, còn được biết đến với tên viết tắt **Gestapu** của _Gerakan September Tiga Puluh_) là một tổ chức tự xưng gồm các thành viên Lực lượng
**Phong trào mùng 5 tháng 4** hoặc **Phong trào mùng 5** (hay Sự kiện Thiên An Môn 1976) là những cuộc biểu tình quy mô lớn của nhiều tầng lớp dân chúng và sinh viên
**Tofik Benedictus "Benny" Hinn** (sinh ngày 3 tháng 12 năm 1952), là nhà thuyết giảng trên truyền hình thuộc giáo phái Ngũ Tuần, được biết đến bởi các "Chiến dịch Phép lạ" - chuyên thuyết
**Cuộc biểu tình tại Quảng trường Thiên An Môn**, ở Trung Quốc được gọi là **Sự cố ngày 4 tháng 6** (), là các cuộc biểu tình do sinh viên lãnh đạo được tổ chức
**Ngũ giới** (tiếng Phạn: ; tiếng Pali: ), hay **năm học giới** (tiếng Phạn: ; tiếng Pali: ), là hệ thống đạo đức quan trọng nhất dành cho người Phật tử tại gia. Đây là
**Lực lượng Phòng vệ Israel** ( - IDF; ) là lực lượng quân sự của Israel, gồm Lục quân, Không quân và Hải quân. Đây là cánh vũ trang của các lực lượng an ninh
nhỏ|phải|Sứ đồ Phao-Lô với những ghi chép về ân tứ thuộc linh **Ân tứ** (_Spiritual gift_/χάρισμα) là một khả năng phi thường được Chúa Thánh Thần ban tặng cho. Những người theo đạo này tin
**Tuân Tử** (chữ Hán: ; ) là một triết gia người Trung Quốc sống vào cuối thời Chiến Quốc. Cùng với Khổng Tử và Mạnh Tử, ông được xem là một trong ba nhà tư
**Biểu tình tại Hồng Kông 2014**, còn được gọi là “Cách mạng ô dù” hay “Phong trào ô dù”, bao gồm những cuộc biểu tình, phản biểu tình và những hành động như trưng cầu
**Hải Phòng** là một trong sáu thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam. Đây là thành phố lớn thứ 3 Việt Nam về quy mô kinh tế, đồng thời là một thành phố
**Phong Hóa** (1932 - 1936) là một tuần báo xuất bản tại Hà Nội (Việt Nam), và đã trải qua hai thời kỳ: từ số 1 (ra ngày 16 tháng 6 năm 1932) đến số
Trang đầu _[[Phép giảng tám ngày_ in năm 1651 của nhà truyền giáo Alexandre de Rhodes. Bên trái là tiếng Latinh, bên phải là tiếng Việt viết bằng chữ Quốc ngữ.]] **Chữ Quốc ngữ** là
Hoa phượng đỏ, biểu tượng của người Hải Phòng Dưới đây là **danh sách những nhân vật tiêu biểu** là những người đã sinh ra tại Hải Phòng, có quê quán (nguyên quán) ở Hải
**Trường Đại học Trần Quốc Tuấn** (tiếng Anh: Tran Quoc Tuan University - First Army Academy) hay **Trường Sĩ quan Lục quân 1** là trường đào tạo sĩ quan chỉ huy lục quân sơ cấp
**Ngôn ngữ LGBT** là môn nghiên cứu từ ngữ của cộng đồng LGBT. Các thuật ngữ liên quan hoặc đồng nghĩa phát triển bởi William Leap vào những năm 1990, bao gồm **ngôn ngữ màu
**Cabo Verde** ( (), , phiên âm: "Ca-bô Ve-đê" hay "Cáp-ve", nghĩa là _"Mũi Xanh"_), tên chính thức là **Cộng hòa Cabo Verde** (tiếng Bồ Đào Nha: _República de Cabo Verde_) là một quốc đảo
là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Takao_ bao gồm bốn chiếc, được thiết kế cải tiến dựa trên lớp _Myōkō_ trước đó. _Maya_ đã hoạt
**_Atago_** (tiếng Nhật: 愛宕) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Takao_ bao gồm bốn chiếc, được thiết kế cải tiến dựa trên lớp _Myōkō_ trước
thumb|_Con rắn lớn của [[Winfield Scott|Scott_, một bản đồ hoạt họa minh họa cuộc phong tỏa của Liên minh miền Nam trong Nội chiến Hoa Kỳ, được gọi là Kế hoạch Anaconda, do JB Elliott