✨Cabo Verde

Cabo Verde

Cabo Verde ( (), , phiên âm: "Ca-bô Ve-đê" hay "Cáp-ve", nghĩa là "Mũi Xanh"), tên chính thức là Cộng hòa Cabo Verde (tiếng Bồ Đào Nha: República de Cabo Verde) là một quốc đảo gồm một quần đảo san hô 10 đảo nằm ở trung tâm Đại Tây dương, cách bờ biển Tây Phi khoảng 570 km, gồm 10 đảo núi lửa với tổng diện tích đất khoảng . Các đảo này có khoảng cách giữa về phía tây Cabo Verde nằm ở điểm cực tây của lục địa Châu Phi. Các đảo Cabo Verde là một phần của vùng sinh thái Macaronesia, cùng với Azores, quần đảo Canary, Madeira và quần đảo Savage .

Quần đảo Cabo Verde đã không có người ở cho đến thế kỷ 15, khi các nhà thám hiểm của Bồ Đào Nha khám phá và thuộc địa hóa quần đảo này, do đó thiết lập khu định cư đầu tiên của người Châu Âu ở vùng nhiệt đới. Vì các đảo ở Cabo Verde nằm ở một vị trí thuận tiện để đóng một vai trò trong buôn bán nô lệ Đại Tây Dương, Cabo Verde trở nên thịnh vượng về kinh tế trong suốt thế kỷ 16 và 17, thu hút các thương gia, các tàu lùng và cướp biển. Quần đảo này suy giảm kinh tế vào thế kỷ 19 do sự đàn áp của việc buôn bán nô lệ ở Đại Tây Dương, và nhiều cư dân của quần đảo đã di cư trong thời kỳ đó. Tuy nhiên, Cabo Verde dần dần phục hồi kinh tế khi trở thành một trung tâm thương mại quan trọng và điểm dừng chân hữu ích dọc các tuyến đường vận tải biển chính. Năm 1951, Cabo Verde được hợp nhất như một bộ tỉnh hải ngoại của Bồ Đào Nha, nhưng cư dân của quần đảo vẫn tiếp tục chiến dịch giành độc lập mà họ đã đạt được vào năm 1975.

Kể từ đầu những năm 1990, Cabo Verde đã là một quốc gia theo thể chế dân chủ đại diện ổn định, và vẫn là một trong những quốc gia dân chủ và phát triển nhất ở châu Phi. Thiếu tài nguyên thiên nhiên, nền kinh tế đang phát triển của quốc gia này chủ yếu theo hướng dịch vụ, với trọng tâm ngày càng tăng vào du lịch và đầu tư nước ngoài. Dân số khoảng 483.628 người vào năm 2021 chủ yếu là người gốc Phi và châu Âu di sản và chủ yếu là Công giáo, theo phản ánh di sản của sự cai trị của Bồ Đào Nha. Một cộng đồng ngoại kiều Cabo Verde lớn tồn tại trên khắp thế giới, đặc biệt là ở Hoa Kỳ và Bồ Đào Nha, và đông hơn đáng kể cư dân trên các hòn đảo. Cabo Verde là một quốc gia thành viên của Liên minh châu Phi.

Ngôn ngữ chính thức của Cabo Verde là tiếng Bồ Đào Nha. Nó là ngôn ngữ của sự hướng dẫn và chính phủ. Nó cũng được sử dụng trên báo chí, truyền hình và đài phát thanh.

Lịch sử

Trước đây, quần đảo này không có cư dân. Người Bồ Đào Nha đến Cabo Verde năm 1460 và chiếm Cabo Verde làm thuộc địa từ năm 1495. Phần lớn dân cư ngày nay là người lai giữa người Bồ Đào Nha và người châu Phi.

Với vị trí nằm ngay trên thương lộ nối châu Phi, châu Âu và châu Mỹ, Cabo Verde từng là trung tâm buôn bán nô lệ sầm uất, nhưng đến năm 1876 khi chế độ nô lệ bị bãi thì vị thế quần đảo này phai nhạt dần. Năm 1951, về mặt hành chánh Cabo Verde trở thành một tỉnh hải ngoại của Bồ Đào Nha. Năm 1961, chính phủ Bồ Đào Nha trao quyền công dân cho mọi người dân Cabo Verde, xem họ bình đẳng trước luật pháp như dân ở chính quốc. Phong trào độc lập dưới sự lãnh đạo của Đảng châu Phi vì Độc lập Guiné-Bissau và Cabo Verde (PAIGC), thành lập từ năm 1956. Biến cố đảo chính năm 1974 ở Bồ Đào Nha đánh dấu một trang sử mới khi chính phủ Lisboa theo đuổi chính sách "giải thực" trao độc lập cho các xứ thuộc địa. Sự việc này diễn ra ngày 20 tháng 12 khi Bồ Đào Nha chính thức ký kết trả độc lập cho Cabo Verde. Cabo Verde tuyên bố độc lập ngày 5 tháng 7 năm 1975. Đảng châu Phi vì Độc lập Guiné-Bissau và Cabo Verde nắm quyền lãnh đạo đất nước.

Năm 1977, Đại hội lần thứ 3 PAIGC chủ trương liên kết kinh tế Guiné-Bissau và Cabo Verde, tiến tới hợp nhất 2 nước thành 1 nước cộng hoà nhưng tháng 11 năm 1980, tướng Joao Bernado Vieira (người Guiné-Bissau) tiến hành đảo chính lật đổ Tổng thống Louis Cabral và lên nắm quyền. Sau sự kiện này, Guiné-Bissau và Cabo Verde cắt quan hệ, bộ phận Đảng của Cabo Verde trong PAIGC tách thành PAICV (Đảng người Phi vì Độc lập của Cabo Verde).

Năm 1990, Cabo Verde tiến hành cải cách hiến pháp, tách chức năng của đảng ra khỏi chức năng Nhà nước, chấp nhận chế độ đa đảng. Cuộc tuyển cử đa đảng đầu tiên kể từ khi độc lập diễn ra ngày 13 tháng 1 năm 1991. Đảng Phong trào vì dân chủ giành được đa số phiếu, ứng cứ viên đảng này, Antonio Monteiró trở thành Tổng thống và tái đắc cử năm 1996.

Tháng 12 năm 1995, đảng Phong trào Dân chủ (MPD) lại giành được thắng lợi trong cuộc bầu cử Quốc hội, chiếm 59% số phiếu bầu (50/72 ghế Quốc hội).

Trong cố gắng phát triển ưu thế về vị trí thuận lợi cả đường biển và đường không xuyên Đại Tây Dương, Nhà nước Cabo Verde tiến hành mở rộng các phi cảng và hải cảng. Các đoàn tàu đánh bắt cá biển và công nghiệp chế biến cá cũng được hiện đại hóa. Tình trạng nghèo đói, thất nghiệp tiếp tục gia tăng, chương trình tư nhân hóa của Chính phủ không mấy thành công đã làm cho đảng Phong trào vì dân chủ thất bại trong cuộc bầu cử năm 2001, José Maria Neves thuộc đảng châu Phi vì Độc lập của Cabo Verde trở thành Thủ tướng.

Chính trị

Cabo Verde là nước cộng hòa nghị viện. Hiến pháp được phê chuẩn vào năm 1980 và sửa đổi năm 1992, 1995 và 1999. Tổng thống là người đứng đầu nhà nước và được người dân bầu chọn với nhiệm kỳ 5 năm. Thủ tướng là người đứng đầu chính phủ. Thủ tướng được đề cử bởi Quốc hội và được tổng thống chỉ định. Các thành viên của Quốc hội được bầu theo phổ thông đầu phiếu cho nhiệm kỳ 5 năm. Ba đảng phái hiện có ghế trong Quốc hội là PAICV 40 ghế, MPD 30 ghế, và Liên minh Dân chủ Cabo Verde độc lập (UCID) 2 ghế.

Hệ thống tư pháp bao gồm một Tòa án tối cao mà các thành viên được bổ nhiệm bởi Tổng thống, Quốc hội và Hội đồng quản trị của ngành Tư pháp và các tòa án khu vực. Tòa án riêng biệt khác nhau sẽ xét xử các vụ dân sự, vi phạm hiến pháp và hình sự.

Đối ngoại

Cabo Verde theo đường lối độc lập dân tộc, không liên kết, quan hệ mật thiết với các nước thuộc địa cũ của Bồ Đào Nha, chú trọng quan hệ với Bồ Đào Nha, Pháp.

Địa lý

phải|Bãi biển trên đảo [[São Vincente]] nhỏ|trái|Ảnh chụp vệ tinh Cabo Verde, ngày [[23 tháng 11 năm 2010.]]

Cabo Verde là một quần đảo nhỏ ở Tây Phi, nằm ở phía Tây Sénégal. Cabo Verde là một quần đảo núi lửa ở Đại Tây Dương, được chia thành hai nhóm: nhóm Ilhas do Barlavento ở phía Bắc, gồm các đảo Santo Antão (754 km²), Boa Vista (622 km²), São Vincente (246 km²), Sal (298 km²) và Santa Luzia (34 km²); và nhóm Ilhas do Sotavento ở phía Nam gồm có các đảo São Tiago (992 km²), Fogo (477 km²) có một núi lửa còn đang hoạt động, Maio (267 km²) và Brava (65 km²). Địa hình ở các đao này chủ yếu là núi với các vùng đất có nhiều rãnh sâu do xói mòn và nhiều đảo nhỏ.

Khí hậu

Khí hậu tương đối ôn hòa, mùa hè nóng và ẩm. Lượng mưa thấp và thất thường. Trung bình nhiệt độ hàng ngày dao động từ 23 °C (73 °F) trong tháng 2 đến 29 °C (84,2 °F) trong tháng 9. Cabo Verde là một phần của vành đai khô cằn Sahel. Mưa không đều giữa tháng 8 và tháng 10 với những trận mưa lớn thường xuyên nhưng không kéo dài.

Môi trường

Nạn phá rừng để lấy gỗ làm nhiên liệu; đất bị xói mòn do tình trạng chăn thả quá mức và sử dụng đất không đúng cách; sa mạc hóa; môi trường bị hủy hoại đe dọa đời sống một số loài chim và bò sát; tình trạng đánh bắt cá quá mức.

Hành chính

Thành phố [[Nova Sintra, trên đảo Brava.]] Thủ đô [[Praia trên đảo Santiago.]]

Cabo Verde được chia thành 22 thành phố (concelhos) và 32 giáo xứ (freguesias), các giáo xứ này đã tồn tại trong thời kỳ thuộc địa trên cơ sở giáo xứ của Công giáo:

phải|nhỏ|Trung tâm thành phố [[Mindelo thuộc giáo xứ Baía do Porto Grande, đảo São Vicente.]] Các hòn đảo nhỏ không có người trên đảo [[Secos Ilhéus hoặc Ilhéus Rombo, nhìn thấy từ ngoài khơi bờ biển, với thị trấn Sintra Nova ở phía trước.]]

Kinh tế

Kinh tế hướng tới các ngành dịch vụ: thương mại, giao thông vận tải và dịch vụ công cộng chiếm khoảng 70% GDP. Mặc dầu gần 70% dân số sống ở nông thôn nhưng nông nghiệp chỉ chiếm 8% GDP, trong đó ngư nghiệp chiếm khoảng 15% (năm 1995). Cabo Verde phải nhập khẩu đến 90% lương thực. Tiềm năng nghề cá, chủ yếu là tôm hùm và cá ngừ, còn chưa được quan tâm khai thác.

Tình trạng thâm hụt hàng năm cao, phải nhờ vào viện trợ của quốc tế và tiền gửi của khoảng 60.000 người di cư (số tiền gửi này đóng góp hơn 20% GDP). Những cải cách kinh tế do Chính phủ dân chủ mới đưa ra năm 1991 đã hướng vào phát triển khu vực kinh tế tư nhân và thu hút đầu tư nước ngoài để đa dạng hóa nền kinh tế. Trước đây Cabo Verde là vùng núi lửa, nay là bán sa mạc, khô cằn, ít mưa, luôn bị hạn, kinh tế nghèo nàn, thiếu lương thực. Nguồn thu nhập chính là thuê sân bay, hải cảng, muối. Đóng góp của kiều dân Cáp-ve ở nước ngoài là nguồn thu nhập ngoại tệ đáng kể của nền kinh tế nước này.

Từ năm 2000 đến năm 2009, GDP tăng trung bình hơn 7% một năm, cao hơn mức trung bình so với các nước tiểu vùng Sahara và nhanh hơn so với các nền kinh tế ở các quốc đảo nhỏ nhất trong khu vực. Hoạt động kinh tế phất triển mạnh mẽ do sự góp phần của ngành công nghiệp du lịch được xem là phát triển nhanh nhất trên thế giới, cũng như dòng vốn đầu tư nước ngoài đáng kể cho phép Cabo Verde phát triển mạnh kinh tế. Tỷ lệ thất nghiệp đã giảm nhanh chóng, và đất nước đang đi đúng hướng để đạt được hầu hết các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ do Liên Hợp Quốc đề ra, bao gồm giảm một nửa mức nghèo đói trong năm 1990.

Trong năm 2007, Cabo Verde gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và trong năm 2008 thoát khỏi danh sách Các quốc gia kém phát triển nhất (LDC) trở thành nước có thu nhập trung bình (MIC).

GDP (thực tế): 1,68 tỷ USD (2009). GNP bình quân: 3.900 USD (2009). Tăng trưởng: 1,8% (2009). Năm 2008, tỷ lệ nhập học tiểu học là 84%. Khoảng 85% tổng dân số trên 15 tuổi biết chữ. Sách giáo khoa được cung cấp miễn phí tới 90% học sinh, và 90% các giáo viên được tham dự dịch vụ đào tạo giáo viên. Mặc dù hầu hết trẻ em được tiếp cận với giáo dục, nhưng cũng còn một số vấn đề lớn trong việc giáo dục. Ví dụ, nhiều sinh viên và một số giáo viên nói tiếng Creole ở nhà và họ nói không rành tiếng Bồ Đào Nha (ngôn ngữ giảng dạy); không có đủ chi phí cho dụng cụ học tập, và có một tỷ lệ lưu ban cao.

Y tế

nhỏ|Một bệnh viện ở thủ đô [[Praia.]]

Dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng miễn phí, tuy nhiên chất lượng y tế không cao (thiếu thốn trang thiết bị và nhân viên). Khu vực nông thôn chỉ có khoảng 1/2 số dân được sử dụng nước sạch.

Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh tại Cabo Verde là 18 trên 1.000 ca, và tỷ lệ tử vong ở mẹ là 53,7 ca tử vong trên 100.000 ca. Tỷ lệ nhiễm AIDS là thấp - có khoảng 1.700 bệnh nhân HIV/AIDS trong cả nước, với hơn một nửa trong số này nằm ở Praia.

Nhân khẩu học

Số liệu thống kê nhân khẩu học của ESA nói Cabo Verde có dân số 567.000 trong năm 2010.

Dân tộc

Phần lớn dân số là người Creole (lai giữa người da đen và da trắng). Một nghiên cứu di truyền cho thấy tổ tiên của người Cabo Verde chủ yếu là người châu Âu trong dòng nam và Tây Phi trong dòng nữ; tính với nhau tỷ lệ này là 57% châu Phi và 43% châu Âu.

Tôn giáo

Khoảng 95% dân số là Kitô giáo. Hơn 85% dân số là trên danh nghĩa là Công giáo La Mã,. Các giáo phái Tin Lành lớn nhất là Giáo hội Nazarene;. Các nhóm khác bao gồm Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm, Mặc Môn, Phong trào Ngũ Tuần và Tin Lành khác. Có một cộng đồng Hồi giáo nhỏ. Những người vô thần được ước tính ít hơn 1% dân số.

Văn hóa

Văn học đất mũi Verdean

Âm nhạc

Âm nhạc đảo quốc này là sự kết hợp giữ âm nhạc Bồ Đào Nha, Caribe, châu Phi, và ảnh hưởng của âm nhạc Brazil. âm nhạc quốc gia tinh túy của Cabo Verde là Morna, một hình thức hát u sầu và trữ tình thường hát bằng tiếng Creole. Thể loại âm nhạc phổ biến nhất sau morna là coladeira tiếp theo funaná và âm nhạc batuque. Thế giới biết đến nền âm nhạc Cabo Verde qua những ca sĩ nổi tiếng thế giới như Ildo Lobo và Cesária Évora mà các bài hát của họ đã trở thành một biểu tượng và nền văn hóa của đất nước. Ngoài ra còn có các nghệ sĩ nổi tiếng thế giới được sinh ra ở Cabo Verde. Trong số đó có các nghệ sĩ như nghệ sĩ piano và jazz Horace Silver, nghệ sĩ saxophone Paul Gonsalves Duke Ellington, Paul Pena, anh em Tavares và ca sĩ Lura.

Ngôn ngữ

Ngôn ngữ chính thức của Cabo Verde là tiếng Bồ Đào Nha. Nó là ngôn ngữ được giảng dạy và là ngôn ngữ chính thức của chính phủ. Tuy nhiên, tiếng Creole được sử dụng một cách thông dụng và được xem là tiếng mẹ đẻ của hầu như tất cả người Cabo Verde.

Giao thông vận tải

Ở Cabo Verde, giao thông vận tải giữa các đảo được thực hiện bằng máy bay. Có các chuyến bay thường xuyên đến và đi từ các đảo chính (Santiago, Sal và São Vicente), với các chuyến bay ít hơn đối với các đảo khác. Giao thông vận tải bằng thuyền cũng có sẵn, mặc dù không được sử dụng rộng rãi cũng như sự an toàn không được bảo đảm. Trong các thành phố lớn, xe buýt công cộng chạy theo định kỳ và taxi là phương tiện di chuyển phổ biến. Ở các thị trấn nhỏ, phương tiện giao thông vận tải chủ yếu là xe khác Toyota hiaces hoặc taxi.

Báo chí

Báo chí trực tuyến

Chủ đề hỗn hợp

**Tháng**
**Nhiệt độ**
**Lượng mưa**
Tháng 1
75 °F
24 °C
5,3mm
Tháng 2
75 °F
24 °C
3,8mm
Tháng 3
77 °F
25 °C
1,3mm
Tháng 4
77 °F
25 °C
0,0mm
Tháng 5
78 °F
25 °C
0,0mm
Tháng 6
79 °F
26 °C
0,0mm
Tháng 7
81 °F
27 °C
0,8mm
Tháng 8
84 °F
29 °C
14,1mm
Tháng 9
85 °F
29 °C
33,6mm
Tháng 10
83 °F
29 °C
6,5mm
Tháng 11
81 °F
27 °C
2,5mm
Tháng 12
77 °F
25 °C
1,6mm
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Cabo Verde** ( (), , phiên âm: "Ca-bô Ve-đê" hay "Cáp-ve", nghĩa là _"Mũi Xanh"_), tên chính thức là **Cộng hòa Cabo Verde** (tiếng Bồ Đào Nha: _República de Cabo Verde_) là một quốc đảo
**Escudo** (ký hiệu: \mathrm{S}\!\!\!\Vert; ISO 4217: **CVE**) là đơn vị tiền tệ của nước Cộng hòa Cabo Verde. Biểu tượng _cifrão_ được dùng như dấu ngăn cách phần thập phân khi viết số tiền, chẳng
**Sân vận động Quốc gia Cabo Verde** () là một sân vận động đa năng ở Praia, Cabo Verde. Được sử dụng cho các trận đấu bóng đá, đây là sân nhà của đội tuyển
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Cabo Verde** () là đội tuyển cấp quốc gia của Cabo Verde do Liên đoàn bóng đá Cabo Verde quản lý. Trận đấu quốc tế đầu tiên của đội
thumbnail|Dấu nhập cảnh Cape Verde Du khách đến **Cabo Verde** phải xin thị thực trừ khi họ đến từ một trong những quốc gia được miễn thị thực, chủ yếu là ở châu Phi. Thị
**Liên đoàn bóng đá Cabo Verde** () là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Cabo Verde. Liên đoàn quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Cabo Verde, tổ
**Cabo Verde** (hay Cáp-ve) đã liên tục gửi các vận động viên đến Thế vận hội Mùa hè kể từ năm 1996, và chưa từng giành được tấm huy chương nào. Cabo Verde cũng chưa
**Sidnei dos Reis Mariano** (sinh ngày 23 tháng 2 năm 1986), hay **Sidnei**, là một cầu thủ bóng đá người Cabo Verde thi đấu cho Libolo ở Angola, ở vị trí tiền vệ trung tâm.
**Vagner José Dias Gonçalves** (sinh ngày 10 tháng 1 năm 1996), hay đơn giản là **Vagner**, là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Cabo Verde đang chơi ở vị trí tiền đạo cho
Đây là **danh sách các câu lạc bộ bóng đá ở Cabo Verde**. _Về danh sách đầy đủ, xem :Thể loại:Câu lạc bộ bóng đá Cabo Verde_ ## Từ khóa ### A ### B ###
Đây **danh sách các thành phố ở Cabo Verde**, bao gồm cả thị trấn. ## 10 thành phố lớn nhất Số liệu dân số năm 2002 # Praia - 101.000 # Mindelo - 67.100 #
**Cuộc bầu cử tổng thống** được tổ chức tại Cabo Verde vào ngày 7 tháng 8 năm 2011, với vòng hai diễn ra ngày 21 tháng 8. Jorge Carlos Fonseca của Phong trào Dân chủ
Bài viết này ghi lại các tác động của đại dịch COVID-19 ở Cabo Verde, và có thể không bao gồm tất cả các phản ứng và biện pháp chính hiện đại. ## Dòng thời
**São Vicente** (tiếng Bồ Đào Nha nghĩa là "Thánh Vincent"), còn gọi là **Son Visent** hay **Son Sent** trong creole Cabo Verde, là một đảo trong cụm Barlavento của Cabo Verde, ngoài khơi Tây Phi.
**Quyền đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới ở Cape Verde (Cabo Verde)** có thể phải đối mặt với những thách thức pháp lý mà những người không phải LGBT không
**Giờ Cabo Verde**, hoặc **CVT**, là một múi giờ được sử dụng tại quần đảo quốc gia Atlantic của Cape Verde. Múi giờ này sau UTC 1 giờ (UTC-1). Quy ước giờ mùa hè không
**Gardénia Benrós** là một ca sĩ người Cabo Verde. ## Tiểu sử Benrós được sinh ra ở thành phố Praia, có cha mẹ từ đảo Brava, đảo của những loài hoa. Cô trở thành một
**Carlina Fontes Pereira** (1926 – 11 tháng 12 năm 2011) là nhà hoạt động, chính trị gia Cabo Verde, và là nhân vật nổi bật trong phong trào giải phóng đất nước khi Cabo Verde
**Cidade Velha** (tiếng Bồ Đào Nha có nghĩa là "thành phố cổ" còn được gọi là _Santiago de Cabo Verde_), hay đơn giản chỉ gọi là **Sidadi** trong tiếng Creole Cabo Verde, là một thành
**Maria Dulce de Oliveira Almada Duarte** (sinh năm 1933) là nhà ngôn ngữ học là thành viên và là chiến sĩ tham gia kháng chiến của Đảng Châu Phi vì Độc lập Guinea và Cabo
**Ulisses Correia e Silva** là doanh nhân và chính khách Cabo Verde. Trước đây, ông từng giữ chức vụ Bộ trưởng Tài chính Cabo Verde từ năm 1999 đến năm 2001. Hiện tại, ông đang
**Cesária Évora** (27 tháng 8 năm 1941 – 17 tháng 12 năm 2011) là nữ ca sĩ nổi tiếng người Cabo Verde với biệt danh "barefoot diva" ("nữ danh ca chân trần") vì khi biểu
**Jovane Eduardo Borges Cabral** (sinh ngày 14 tháng 6 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Cabo Verde hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo hoặc tiền vệ cánh
**_Passer iagoensis_** là danh pháp khoa học của một loài chim thuộc họ Sẻ (Passeridae). Đây là loài đặc hữu của quần đảo Cabo Verde ở phía đông Đại Tây Dương về gần phía tây
**Nilda Maria** (tên khai sinh là Nilda Maria Gonçalves de Pina Fernandes) là một chính trị gia Cabo Verde và là thành viên của quốc hội cho khu vực bầu cử Nam Santiago, đồng thời
**Elida Almeida** (sinh năm 1993) là ca sĩ người Cabo Verde. ## Tiểu sử nhỏ|Elida Almeida tại Lễ hội Rudolstadt 2018 Elida sinh ra tại Pedra Badejo, phía đông đảo Santiago. Cô trải qua những
**Celina Pereira** là một ca sĩ Cabo Verde và là một nhà giáo dục. ## Nghề nghiệp Cô là một giáo viên tiểu học ở Viseu. Cô đã xuất bản đĩa đơn đầu tiên vào
_Maria Alice cũng có thể đề cập đến một fadista người Bồ Đào Nha_ **Maria Alice de Fátima Rocha Silva** (sinh ngày 23 tháng 10 năm 1971), được biết đến với cái tên Maria Alice,
**António Sérgio Lopes Tavares** (sinh ngày 12 tháng 6 năm 1987) là một cầu thủ bóng đá người Cabo Verde thi đấu cho câu lạc bộ Bồ Đào Nha Casa Pia, ở vị trí tiền
**Cecílio Lopes** (sinh ngày 18 tháng 3 năm 1979) là một cầu thủ bóng đá Cabo Verde hiện đang thi đấu ở vị trí tiều đạo cho câu lạc bộ Hà Lan, Capelle. ## Sự
**Belinda Lima Francis**, trên bìa album đơn giản là **Belinda**, là một ca sĩ Cabo Verde - Hoa Kỳ có trụ sở tại Mindelo. Belinda Lima Spencer được sinh ra tại Hoa Kỳ của cha
**Maria de Barros** (sinh ngày 3 tháng 2 năm 1961 tại Dakar, Sénégal) là một ca sĩ gắn liền với Cape Verde, vùng đất của cha mẹ cô. Lớn lên ở Nouakchott, Mauritania, cô chuyển
**Mindelo** (Mindel trong tiếng Creole Cabo Verde) là một thành phố cảng của Cabo Verde. Mindelo nằm ở phía bắc của đảo São Vicente ở Cabo Verde. Mindelo cũng là nơi đóng trụ sở của
**Lígia Arcângela Lubrino Dias Fonseca** (sinh ngày 24 tháng 8 năm 1963) là một luật sư, nhà hoạt động và chính trị gia của Cabo Verde, đồng thời là Đệ nhất phu nhân của Cape
**Sân bay Maio** (tiếng Bồ Đào Nha **_Aeroporto do Maio_**) là một sân bay ở Cabo Verde, trên đảo Maio, cách thủ phủ đảo Villa Maio khoảng 3 km về phía bắc. Sân bay này có
**Sân bay Preguiça** (tiếng Bồ Đào Nha **_Aeroporto de Preguiça_**) là một sân bay ở Cabo Verde, trên đảo São Nicolau, cách thủ phủ đảo Ribeira Brava 3 km về phía nam. Mã IATA là **S**ão
**Sân bay quốc tế Francisco Mendea** là một sân bay ở đảo Santiago ở Cabo Verde. Sân bay này được khai trương năm 1961, được đặt tênt heo nhà dân tộc chủ nghĩa Francisco Mendes.
**Ericson Jorge Silva Rodrigues Duarte** (sinh ngày 25 tháng 11 năm 1987 ở São Vicente), hay đơn giản **Ericson**, là một cầu thủ bóng đá người Cabo Verde thi đấu cho câu lạc bộ Bồ
**Tiago Miguel Monteiro de Almeida** (sinh ngày 13 tháng 9 năm 1990) là một cầu thủ bóng đá người Cabo Verde thi đấu ở vị trí hậu vệ phải cho Varzim. ## Danh hiệu ;Moreirense
**Joazimar Sequeira Conceição**, hay **Joazimar Stehb** (sinh ngày 26 tháng 1 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá người Cabo Verde thi đấu cho Praiense. ## Sự nghiệp câu lạc bộ Anh ra mắt
**Hernâni José Oliveira Santos Borges** (sinh ngày 27 tháng 8 năm 1981 ở Maia, Bồ Đào Nha), hay đơn giản **Hernâni**, là một cầu thủ bóng đá người Cabo Verde thi đấu cho U.D. Leiria
**Ana Firmino** (sinh năm 1953) là một ca sĩ người Cabo Verde. Cô sinh năm 1953 trên đảo Sal, nhưng mãi đến năm 20 tuổi, cô mới cống hiến hết mình cho sự nghiệp âm
**Sân bay quốc tế Nelson Mandela** hay **Sân bay quốc tế Praia** (IATA: **RAI**, ICAO: **GVNP**) là một sân bay nằm trên đảo Santiago của Cabo Verde. Nó đã được mở cửa vào cuối năm
**Bela Duarte** là một nghệ sĩ đến từ Cabo Verde, sinh ra ở đảo São Vicente và được nghiên cứu về nghệ thuật trang trí tại Lisbon, Bồ Đào Nha. Trong cuộc Cách mạng Hoa
thumb|_Alaemon alaudipes alaudipes _ **Sơn ca đầu rìu lớn**, tên khoa học **_Alaemon alaudipes_** là một loài chim trong họ Alaudidae. Là loài định cư sinh sản của các khu vực khô cằn, sa mạc
**Paula Fortes** (1945–2011) là một nhà hoạt động độc lập của Cabo Verde. Là người gốc Mindelo, Fortes trở thành trẻ mồ côi năm 13 tuổi và 16 tuổi tham gia cuộc đấu tranh chống
**Sixten Mohlin** (sinh ngày 17 tháng 1 năm 1996 ở Rotterdam, Hà Lan) là một cầu thủ bóng đá người Thụy Điển thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Allsvenskan Dalkurd
**_Similiparma hermani_** là một loài cá biển thuộc chi _Similiparma_ trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1887. ## Từ nguyên Từ định danh được đặt theo tên
**Adilson Vaz** (sinh ngày 29 tháng 10 năm 1988), thường gọi **Ivandro Semedo**, là một cầu thủ bóng đá người Cabo Verde thi đấu cho AD Fafe.
**Hélder Samir Lopes Semedo Fernandes**, hay **Samir** (sinh ngày 13 tháng 10 năm 1988) là một cầu thủ bóng đá người Cabo Verde thi đấu cho Sertanense. Anh cũng mang quốc tịch Bồ Đào Nha.