✨Oskar Schindler
Oskar Schindler (28 tháng 4 năm 1908 – 9 tháng 10 năm 1974) là kỹ nghệ gia người Đức sinh tại Moravia. Ông được cho là đã cứu mạng gần 1.200 người Do Thái trong thời kỳ Holocaust bằng cách thuê họ làm công nhân trong các nhà máy sản xuất đồ pháp lam của mình ở nơi mà ngày nay thuộc Ba Lan và xưởng sản xuất đạn dược ở nơi mà ngày nay thuộc Cộng hòa Séc. Ông là chủ đề của cuốn tiểu thuyết Schindler's Ark, và bộ phim giành giải Oscar năm 1993 dựa trên tiểu thuyết này Bản danh sách của Schindler.
Thời trẻ
Schindler sinh ngày 28 tháng 4 năm 1908 tại Zwittau, Moravia, Đế quốc Áo-Hung, trong một gia đình người Đức ở Tiệp Khắc. Cha mẹ ông - Hans Schindler và Franziska Luser - ly dị khi ông được 27 tuổi. Oskar luôn rất thân thiết với cô em gái, Elfriede. Schindler lớn lên trong môi trường Giáo hội Công giáo Rôma, tuy nhiên ông chỉ là một người Công giáo thờ ơ với tôn giáo, mặc dù không hề bỏ đạo. Trong thời kỳ Đại khủng hoảng, Oskar đã thay đổi việc làm nhiều lần. Ông cũng đã thử bắt tay vào nhiều việc kinh doanh khác nhau, nhưng luôn luôn thất bại. Ông gia nhập Sudetendeutsche Partei (Đảng người Đức ở Tiệp Khắc) của những người ly khai năm 1935. Mặc dù chính thức là một công dân Tiệp Khắc, Schindler cũng làm gián điệp cho Abwehr (Cơ quan tình báo của quân đội Đức quốc xã), lúc đó do đô đốc Wilhelm Canaris chỉ huy.
Chiến tranh thế giới thứ hai
Là một doanh nhân cơ hội, Schindler là một trong rất nhiều người tìm cách kiếm lợi nhuận từ Cuộc tấn công Ba Lan. Ông giành được quyền sở hữu một nhà máy sản xuất đồ pháp lam ngưng hoạt động ở Kraków bị tòa án tuyên bố phá sản,, mà ông đã đặt tên lại là Deutsche Emaillewaren-Fabrik (Nhà máy sản xuất đồ tráng men Đức) hoặc DEF ([http://www.wikimapia.org/#lat=50.0478561&lon=19.9611068&z=18&l=0&m=b location]). Với sự giúp đỡ của nhân viên kế toán người Do Thái nói tiếng Đức tên Itzhak Stern, Cương vị đặc biệt của nhà máy ("kinh doanh thiết yếu cho nỗ lực chiến tranh") đã trở thành yếu tố quyết định cho những nỗ lực của Schindler để hỗ trợ các công nhân Do Thái của mình. Bất cứ khi nào "người Do Thái của Schindler" bị đe dọa trục xuất, ông đều đòi miễn cho họ. Các bà vợ, các trẻ em, và thậm chí cả những người khuyết tật đều tỏ ra là những công nhân cơ khí và công nhân kim loại cần thiết., tụ tập ban đêm để học Chumash và trao đổi lời kinh Torah cùng các truyện Gedolim. Vào lúc chấm dứt ngày Shabbat, các công nhân tụ tập để ăn bữa thứ ba ngày shabbat và hát zemirot, đọc kinh Torah, cùng kể các truyện của tzaddikim (những người công chính).
Schindler đã bị bắt 3 lần do bị tình nghi có các hoạt động chợ đen và đồng lõa trong tội biển thủ, cũng như phạm luật Nuremberg bằng việc hôn một cô gái Do Thái. Amon Göth, viên chỉ huy trại Płaszów, và các lính gác SS sử dụng tài sản của người Do Thái (như tiền bạc, nữ trang, và sản phẩm nghệ thuật) cho bản thân họ, mặc dù theo luật thì thuộc về Nhà nước. Schindler đã thu xếp việc bán các mặt hàng đó trên thị trường chợ đen. Tuy nhiên không một vụ bắt giữ nào được đưa ra xét xử, chủ yếu là bởi vì ông đã hối lộ các quan chức chính phủ để tránh bị điều tra thêm. Được mách bảo việc đóng cửa nhà máy, Schindler thuyết phục các quan chức SS cho phép ông di chuyển 1.200 công nhân Do Thái của mình tới Brünnlitz, trong vùng Sudetenland nói tiếng Đức, do đó giúp cho họ khỏi bị chết trong các phòng hơi ngạt. Mietek Pemper tiếp tục hỗ trợ nỗ lực của Schindler bằng cách biên soạn và đánh máy danh sách 1.200 người Do Thái – 1.000 công nhân của Schindler và 200 người sống chung khác - những người đã được gửi tới Brünnlitz trong tháng 10 năm 1944. Vào lúc chấm dứt chiến tranh, Schindler đã tiêu toàn bộ gia tài của mình để hối lộ và mua sắm các đồ dự trữ ở chợ đen cho các công nhân của ông. Hầu như bị túng thiếu, ông di chuyển ngay tới Regensburg và sau đó München, nhưng đã không làm ăn khấm khá được ở nước Đức thời hậu chiến. Trong thực tế, ông đã buộc phải nhận sự trợ giúp từ các tổ chức Do Thái. Cuối cùng, Schindler di cư sang Argentina năm 1948, nơi ông bị phá sản. Ông rời bà vợ Emilie của mình năm 1957 và trở về Đức vào năm 1958, nơi ông đã có một loạt các việc kinh doanh mạo hiểm không thành công. Ông chết mà không có một xu dính túi; mọi chi phí cho những ngày ông nằm trong bệnh viện được cơ quan an sinh xã hội của thành phố Hildesheim thanh toán.
trái|nhỏ|upright|Mộ Schindler Schindler muốn được mai táng ở Jerusalem, như ông từng nói "Các con tôi ở đây". trên Núi Zion, mà chỉ một đảng viên duy nhất của đảng Quốc xã được hưởng vinh dự này.
Nhà văn Herbert Steinhouse - người đã phỏng vấn Schindler năm 1948 theo yêu cầu của một số Schindlerjuden (các người Do Thái của Schindler) sống sót – đã viết:
"Kỳ công đặc biệt của Oskar Schindler phát sinh chính từ ý thức căn bản về tính đúng đắn và nhân bản mà thời đại giả tạo chúng ta ít khi thành thật tin tưởng vào. Một kẻ cơ hội ăn năn hối hận nhìn thấy ánh sáng và nổi dậy chống việc tàn ác cùng việc phạm trọng tội vô cùng ghê tởm chung quanh mình. Kết luận này có thể là đơn giản đáng thất vọng, nhất là đối với mọi nhà phân tích tâm lý nghiệp dư, những người thích động cơ sâu hơn và bí ẩn hơn có thể - đúng vậy - vẫn còn chưa được xem xét kỹ và chưa được đánh giá. Tuy nhiên, một giờ với Oskar Schindler ủng hộ niềm tin vào câu trả lời đơn giản." và một loạt phim ngắn đặc biệt phát trên A&E Biography (Mỹ) năm 1998 _Oskar Schindler: The Man Behind the List_.Va li của Schindler
Cuối năm 1999 một va li của Schindler đã được phát hiện, có chứa trên 7.000 tấm ảnh và tài liệu, trong đó có Bản danh sách các công nhân Do Thái của Schindler. Tài liệu này ghi trên các tờ giấy văn phòng có tiêu đề nhà máy sản xuất đồ pháp lam của ông, đã được gửi cho cơ quan SS, nói rằng các công nhân có tên trên đó là những người lao động thiết yếu (cho xí nghiệp). Các bạn của Schindler tìm thấy chiếc va li này trên gác xép của căn nhà ở Hildesheim, nơi ông cư ngụ vào lúc sắp qua đời. Các bạn ông đưa va li tới Stuttgart, và các tài liệu phát hiện được đăng trên báo Stuttgarter Zeitung. Các thứ chứa trong va li này, trong đó có bản danh sách tên những người mà ông đã cứu sống cùng bản văn bài phát biểu giã biệt các công nhân Do Thái của mình năm 1945, nay được gìn giữ trong Nhà bảo tàng Holocaust của Yad Vashem ở Israel. nhỏ|Nhà máy sản xuất đồ pháp lam của Schindler năm 2009
Danh sách các người của Schindler
Đầu tháng 4 năm 2009, một bản danh sách thứ hai được phát hiện ở Thư viện bang New South Wales, Úc bởi các công nhân lục soát các hộp tư liệu do tác giả Thomas Keneally thu thập. Tập tài liệu 13-trang giấy màu vàng và mỏng dòn, đã được sắp xếp giữa các ghi chú nghiên cứu và những mẩu bài báo gốc cắt ra. Danh sách này do Leopold Pfefferberg -người được ghi trong danh sách là công nhân số 173 - trao cho Keneally vào năm 1980. hơi khác chút ít so với danh sách kia, nhưng dù sao vẫn được coi là chân chính và xác thực. Người ta tin là nhiều danh sách đã được lập ra trong chiến tranh vì số người được bảo vệ đã thay đổi. Danh sách cá biệt này đề ngày 18 tháng 4 năm 1945, đã được Pfefferberg trao cho Keneally, khi ông ta thuyết phục Keneally viết câu chuyện của Schindler. Trong những tháng cuối cùng của cuộc chiến, các trại Đức quốc xã tăng cường những nỗ lực tiêu diệt người Do Thái của họ. Danh sách này được tin là đã cứu cuộc sống của 801 người khỏi bị chết trong các phòng hơi ngạt. Chính danh sách này, cùng các biến cố chung quanh thời điểm đó, đã gợi ý cho Keneally viết cuốn tiểu thuyết của mình.