✨Olympique de Marseille

Olympique de Marseille

Olympique de Marseille (, ; , ), còn được gọi đơn giản là Marseille hoặc viết tắt OM (, ), là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp tại thành phố Marseille, Pháp; được thành lập năm 1899 và phần lớn chơi ở các giải bóng đá hàng đầu nước Pháp suốt lịch sử tồn tại. Marseille đã chín lần vô địch giải hạng nhất Pháp Ligue 1, mười lần đoạt Cúp nước Pháp và là đội bóng Pháp duy nhất từng đoạt chức vô địch UEFA Champions League sau trận thắng AC Milan 1-0 bằng bàn thắng của hậu vệ Basile Boli ngày 26 tháng 5 năm 1993.

Sau chức vô địch Cúp C1 này không lâu, OM bị phát hiện dính vào vụ bán độ đầy tai tiếng với đội bóng Valenciennes trong cùng mùa giải 1992-1993, kết quả là dù vô địch Pháp năm đó Marseille vẫn bị tước danh hiệu đồng thời bị phạt rớt xuống hạng nhì.

Từ mùa 1996-1997, Olympique Marseille trở lại chơi tại Giải hạng nhất Pháp Ligue 1. Phải đến mùa giải 2009 - 2010, Marseille mới lại giành được chức vô địch quốc gia Pháp.

Sân vận động Vélodrome có sức chứa 67.000 khán giả là sân nhà của đội OM, nằm ở phía nam thành phố Marseille. OM đã chơi tại đây từ năm 1937. Từ năm 1997, chủ sở hữu đội bóng là tỉ phú người Thụy Sĩ Robert Louis-Dreyfus.

Áo thi đấu truyền thống của Olympique de Marseille có màu trắng với những đường viền phụ màu xanh lơ. Khẩu hiệu bằng tiếng Pháp của đội Droit Au But có nghĩa là "Thẳng tiến tới khung thành" được in trên áo cùng với một ngôi sao tượng trưng cho một chức vô địch Champions League đã giành được. Marseille còn là đội bóng được yêu thích nhất nước Pháp, có lực lượng cổ động viên trung thành rất hùng hậu thường lấp đầy các khán đài sân Vélodrome giúp OM đạt số lượng trung bình khán giả đến sân lớn nhất tại Pháp, chẳng hạn chỉ số cho mùa 2007-2008 là 52.600 khán giả/trận.

Lịch sử

Thời kì đầu

thumb|René Dufaure de Montmirail, người thành lập Marseille Theo ông André Gascard, người đã từng chơi bóng cho OM trước thế chiến thứ nhất, sau đó trở thành huấn luyện viên, tham gia công tác điều hành, rồi là người lưu trữ sử liệu của câu lạc bộ, thì Olympique de Marseille được thành lập bởi ông René Dufaure de Montmirail vào năm 1892, nhưng đến năm 1899 đội mới sử dụng tên gọi như ngày nay là Olympique de Marseille. Trước đó đội lần lượt mang tên Sporting Club, US Phocéenne, rồi Football Club de Marseille. Các điều lệ của câu lạc bộ được đại hội thành viên thông qua vào tháng 8 năm 1899. Khẩu hiệu "Thẳng tiến tới khung thành" (Droit au but) bắt nguồn từ môn bóng bầu dục vốn là môn thể thao chính của câu lạc bộ lúc bấy giờ.

Cũng theo André Gascard, sau khi gia nhập USFSA năm 1898, mãi đến năm 1902 nhờ người Anh và người Đức mà môn bóng đá mới bắt đầu được chơi tại l'OM. Do có nguồn lực tài chính mạnh hơn và tổ chức tốt hơn các đội bóng khác cùng thành phố Marseille như Sporting, Stade, Phocéenne... nên OM đã trở thành câu lạc bộ thống trị làng bóng đá thành phố cảng lúc đó. Đội thời đó thi đấu ở sân stade de l'Huveaune.

Năm 1904 đội giành chức vô địch Championnat du Littoral (Giải vô địch vùng Duyên hải) lần đầu sau khi đánh bại nhiều đội bóng khác ở Marseille và vùng phụ cận, rồi giành quyền dự vòng chung kết của giải vô địch bóng đá Pháp. Thời đó, từ "football" dùng cho môn bóng bầu dục, còn môn bóng đá được gọi là "association". Ở giải đấu cấp quốc gia, đội liên tiếp bốn lần thất bại tại trận bán kết vào các năm 1904, 1905, 1906, 1908.

Olympique de Marseille đã ngay lập tức có được danh hiệu quốc gia đầu tiên khi liên tiếp đoạt ba chiếc Cúp bóng đá Pháp vào các năm 1924, 1926 và 1927, trong đó chiếc cúp năm 1924 là danh hiệu quan trọng đầu tiên đội có được sau khi đánh bại kình địch FC Sète, vốn là đội thống trị bóng đá Pháp thời đó, tại trận chung kết. Năm 1929, OM vô địch giải bóng đá nghiệp dư Pháp, tiền thân của Ligue 1 ngày nay. Thời gian này nhiều tuyển thủ của đội tuyển Pháp đang chơi bóng tại Marseille, như Jules Dewaquez, Jean Boyer, Joseph Alcazar

Chính vì những thành tích trên mà OM là một trong hai mươi đội bóng được chọn để tham gia giải vô địch bóng đá chuyên nghiệp đầu tiên của Pháp được tổ chức năm 1932. Đội bắt đầu chuyển sang hoạt động theo quy chế chuyên nghiệp.

Kỷ nguyên chuyên nghiệp

Giải vô địch quốc gia chuyên nghiệp đầu tiên của Pháp được tổ chức vào năm 1932-1933 được chia làm hai bảng. OM đứng thứ hai ở bảng đấu của mình sau đội vô địch giải là Olympique lillois, mặc dù Marseille đã hạ đội bóng phía Bắc nước Pháp tới 7 - 0 tại trận khai mạc giải.

Mùa giải tiếp theo (1933-1934). Đội để vuột mất cú đúp đầu tiên trong lịch sử của mình sau khi cùng giành ngôi á quân ở các cúp Quốc gia và giải vô địch quốc gia sau FC Sète. Đáng tiếc nhất là tại giải vô địch quốc gia năm đó, khi Marseille còn ba trận đấu muộn trong khi Sète đã đấu tất cả các trận của mình và chỉ hơn OM đúng một điểm cũng như thua rất sa về hiệu số bàn thắng. OM chỉ cần hòa một trong ba trận đấu cuối là giành ngôi vô địch, tiếc là đội bóng thành phố cảng đã thất thủ ở cả ba trận đấu đó và ngậm ngùi về nhì.

Năm 1937 Marseille lần đầu tiên vô địch giải chuyên nghiệp Pháp nhờ hiệu số bàn thắng +30 hơn đội xếp nhì FC Sochaux-Montbéliard có hiệu số +17 (tỉ số bàn thắng bàn thua 1,76 so với 1,33). Đội cũng giành ngôi á quân quốc gia vào các năm 1938, 1939.

Thập niên 1940

Năm 1938 Larbi Ben Barek ký hợp đồng với l'OM rồi trở thành "viên ngọc đen" của đội, nhưng thế chiến thứ hai đã kết thúc sự nghiệp của ông. Mùa bóng 1942-1943 ghi nhận rất nhiều kỉ lục của đội: 100 bàn thắng trong 30 trận; thắng Avignon 20-2 trong đó riêng cầu thủ Aznar ghi 9 bàn (gồm 8 bàn đầu tiên giúp OM dẫn 8-0); Aznar ghi tổng cộng 56 bàn sau 38 trận ở cả hai giải vô địch quốc gia và cúp quốc gia.

Năm 1948 OM vô địch Pháp nhờ trận hòa Sochaux cùng hai trận thắng quan trọng vào cuối mùa tại Stade Vélodrome trước Roubaix (6-0) và Metz (6-3) khi có sự trở lại của Aznar và Robin vào mùa xuân.

Năm 1952 đội suýt rớt hạng nhưng 31 bàn thắng của Gunnar Andersson đã giúp đội thoát được. Năm 1953 Andersson lập kỉ lục ghi 35 bàn thắng trong một mùa, còn OM thua OGC Nice 1-2 trong trận chung kết cúp nước Pháp năm 1954. OM thi đấu rất vất vả thời kì này nên rớt xuống hạng nhì lần đầu năm 1959. Trừ mùa 1962-1963 chơi tại hạng nhất thì từ năm 1959 đến 1965 OM chơi tại hạng nhì. Năm 1965, Marcel Leclerc thành chủ tịch đội bóng.

Kỷ nguyên của Marcel Leclerc và sự khủng hoảng

Khoảng thời gian Marcel Leclerc làm chủ tịch từ 1965 đến 1972 là kỷ nguyên đầu tiên OM thống trị giải vô dịch Pháp. Tham vọng của ông giúp OM trở lại Ligue 1 năm 1965 rồi sau đó đoạt cúp bóng đá Pháp năm 1969. Mùa 1970-1971, Roger Magnusson đã hỗ trợ tiền đạo Josip Skoblar ghi 44 bàn tại Ligue 1 giúp OM đoạt chức vô địch, còn Skoblar đoạt chiếc giày vàng châu Âu. Mùa 1971-1972, sự xuất hiện của hai cầu thủ Georges Carnus và Bernard Bosquier từ AS Saint-Etienne giúp OM giành cú đúp vô địch Ligue 1 và cúp nước Pháp.

Nhưng thành công không kéo dài được bao lâu khi ngày 19 tháng 7 năm 1972 Marcel Leclerc bị buộc rời khỏi đội. Vị chủ tịch cứng rắn này dọa sẽ rút OM khỏi Ligue 1 do liên đoàn không chấp nhận một đội bóng có ba cầu thủ nước ngoài, trong khi ông muốn mang về ngôi sao Hungary Zoltán Varga mà OM đã có đủ hai cầu thủ ngoại quốc theo quy định thời đó. Bất ngờ OM thay vì ủng hộ đã sa thải ông, bắt đầu thời kì khủng hoảng của đội với chỉ một cúp nước Pháp năm 1976 rồi bị rớt xuống hạng nhì. Marseille chơi ở hạng nhì tám năm với đội hình gồm rất nhiều cầu thủ trẻ (như Éric Di Meco) sau này giúp đội trở lại hạng nhất năm 1984.

Kỷ nguyên của Bernard Tapie

trái|nhỏ|Didier Deschamps là đội trưởng l'OM vô địch [[UEFA Champions League 1992-93]] Ngày 12 tháng 4 năm 1986 nhờ sự hậu thuẫn của thị trưởng Marseille Gaston Defferre, ông Bernard Tapie trở thành chủ tịch đội bóng, bắt đầu thời kì tạo nên đội hình mạnh nhất trong lịch sử bóng đá Pháp. Hai hợp đồng chất lượng đầu tiên ông mang về OM là Karl-Heinz Forster và Alain Giresse sau Giải vô địch bóng đá thế giới năm 1986. Những năm tiếp theo ông ký hàng loạt hợp đồng với rất nhiều danh thủ như Jean-Pierre Papin, Chris Waddle, Klaus Allofs, Enzo Francescoli, Abedi Pelé, Didier Deschamps, Basile Boli, Marcel Desailly, Rudi Völler, Eric Cantona, cùng nhiều huấn luyện viên nổi tiếng như Franz Beckenbauer, Gérard Gili, Raymond Goethals với tham vọng mang về nhiều thành tích cho đội. Từ năm 1989 đến 1992, OM vô địch Ligue 1 bốn lần liên tiếp cùng một Cúp bóng đá Pháp. Đỉnh cao của OM thời kì này là chức vô địch Champions League bằng bàn thắng của hậu vệ Basile Boli vào lưới AC Milan trong trận chung kết ngày 26 tháng 5 năm 1993 trên sân vận động Olympic tại Munich, Đức. Đây cũng là chức vô địch Champions League duy nhất bóng đá Pháp đạt được đến bây giờ, đồng thời giúp Didier Deschamps trở thành đội trưởng trẻ nhất còn Fabien Barthez là thủ môn trẻ nhất từng đoạt danh hiệu này.

Vụ bán độ OM/Valenciennes

Thành công này không ngờ là điểm bắt đầu cho một thập niên xuống dốc của đội khi chủ tịch Tapie bị phát hiện đã dàn xếp một vụ bán độ tai tiếng bậc nhất trong lịch sử bóng đá Pháp, là vụ bán độ OM/VA. Ông đã mua chuộc các cầu thủ đội Valenciennes (VA) trước trận OM-VA mùa 1992-1993 để đảm bảo Marseille thắng trận để vô địch sớm và không ai bị thương trước trận chung kết Champions League với AC Milan diễn ra ngay sau đó. Hậu quả là OM bị tước chức vô địch Ligue 1 mùa 1992-1993, không được tham dự cúp châu Âu và cúp liên lục địa mùa kế tiếp, đồng thời bị đánh rớt xuống giải hạng nhì Pháp Ligue 2.

Con đường trở lại vinh quang?

Marseille trở lại hạng nhất năm 1996 do sự hậu thuẫn của ông chủ mới của đội Robert Louis-Dreyfus cũng là chủ hãng Adidas. Ông chọn Rolland Courbis làm huấn luyện viên, ký hợp đồng với các cầu thủ Fabrizio Ravanelli, Laurent Blanc, Andreas Köpke để cuối mùa bóng 1996-1997 OM xếp thứ 11. Mùa 1998-1999 OM kỉ niệm 100 năm thành lập với đội hình gồm những ngôi sao như Robert Pirès, Florian Maurice, Christophe Dugarry, William Gallas và vị trí thứ hai sau Girondins Bordeaux tại Ligue 1. Cũng mùa này, đội lọt vào chung kết UEFA Cup rồi thua Parma 0-3. Tháng 11 năm 1999, Courbis phải rời đội do khởi đầu mùa bóng mới khá thất vọng.

Năm 2004 OM lại vào trận chung kết cúp UEFA, sau khi lần lượt đánh bại Dnipro Dnipropetrovsk, Inter Milan, Liverpool và Newcastle United đầy ấn tượng rồi lại thua Valencia bấy giờ vừa vô địch Tây Ban Nha với tỉ số 0-2. Người hâm mộ OM lại phải tiếp tục chờ một chức vô địch quan trọng từ 1993 đến nay.

Tháng 1 năm 2007, doanh nhân Canada Jack Kachkar đàm phán với Dreyfus để mua OM nhưng do ông thương thảo quá lâu nên ngày 22 tháng 3 ông Dreyfus quyết định không bán đội.

Tháng 5 năm 2007 OM vào trận chung kết Cúp bóng đá Pháp gặp FC Sochaux-Montbéliard, và lại thua trên loạt sút luân lưu sau khi hòa 2-2 trong giờ đấu chính thức. Đội kết thúc mùa 2006-2007 ở hạng thứ hai sau Lyon, giành quyền tham dự Champions League mùa sau. Trước đó đội đã thua PSG 1-2 trong trận chung kết cúp quốc gia năm 2006.

Tại giải Champions League, bằng trận thắng bất ngờ 1-0 trên sân Anfield của Liverpool năm 2007 bởi bàn thắng đẹp của Mathieu Valbuena, OM là đội bóng Pháp đầu tiên thắng tại sân nhà Liverpool. Nhưng đội lại thua Liverpool 0-4 tại Vélodrome qua đó Liverpool là đội bóng Anh đầu tiên thắng trận tại đây.

Đầu tháng 5 năm 2009 khi OM đang dẫn đầu Ligue 1 thì huấn luyện viên Eric Gerets tuyên bố sẽ ra đi vào cuối mùa, và việc này đã gây ít nhiều xáo trộn trong đội. Ngay sau đó ban lãnh đạo Marseille tuyên bố Didier Deschamps cựu cầu thủ OM sẽ dẫn dắt đội từ mùa bóng 2009-2010.

Tại mùa bóng đầu tiên dẫn dắt Marseille, Deschamps đã đưa Marseille đến chức vô địch nước Pháp lần thứ 9 trong lịch sử sau 18 năm chờ đợi. Cùng trong mùa giải 2009 - 2010, Marseille còn giành chiếc cúp Liên đoàn lần đầu tiên.

Sau khi ông chủ Robert Louis-Dreyfus qua đời, Marseille được chuyển giao cho con gái của ông Robert Louis-Dreyfus. Ở mùa giải 2010 - 2011, đội bóng đã lọt vào vòng 2 của Champions League. Kết thúc mùa giải, Marseille bảo vệ thành công chiếc cúp Liên đoàn, song chỉ xếp thứ 2 ở Ligue 1 và để mất chức vô địch vào tay Lille.

Sân vận động

Từ năm 1904 đến 1937, Marseille chơi tại sân Stade de l'Huveaune sức chứa 15 000 khán giả do chính đội sở hữu, khác với sân Stade Vélodrome hiện nay do đội thuê lại. Từ năm 1937 đến nay OM thuê Stade Vélodrome làm sân nhà tuy vậy có một số thời điểm đội vẫn dùng sân l'Huveaune, như thời Marcel Leclerc để buộc chính quyền thành phố Marseille phải giảm giá cho thuê sân Vélodrome, hoặc khi sân Vélodrome sửa chữa chuẩn bị cho vòng chung kết Euro 1984 và World Cup 1998.

Lần sửa năm 1998 tạo thêm hai khán đài bắc (Virage Nord) và khán đài nam (Virage Sud) cùng với hai khán đài chính Jean Bouin và Ganay có tổng sức chứa 60 013 khán giả, thường xuyên đầy kín các cổ động viên trung thành của đội. Người hâm mộ hy vọng chính quyền thành phố sẽ sớm tăng sức chứa cũng như lợp mái che tất cả các khán đài.

Trước mỗi trận đấu tại Vélodrome người ta thường được nghe bài hát Jump của ban nhạc rock Van Halen, còn khi OM ghi bàn cổ động viên hay hát bài Come with Me của Puff Daddy.

Hiện tại, để chuẩn bị cho Euro 2016, một dự án nâng cấp sân Velodrome đã được thông qua, theo đó, toàn bộ khán đài sẽ được lợp mái che và sức chứa sẽ lên tới 65000 đến 70000 người.

Cổ động viên

Không khí trên sân Stade Vélodrome khi OM thi đấu luôn sôi động so sự cuồng nhiệt của khán giả, đặc biệt từ sức cổ vũ của các hội cổ động viên của đội ở hai khán đài bắc và nam phía sau khung thành. Họ thường sử dụng pháo sáng, những lá cờ to và thường ngồi xếp thành biểu trưng của đội bóng.

;Khán đài bắc-Patrice de Peretti Khán đài bắc dành cho các hội cổ động viên Yankee Nord Marseille, Marseille Trop Puissant, Fanatics, Dodgers. Các hội thường mua vé xem trọn mùa từ đầu giải rồi chia lại cho các hội viên. Từ năm 2002 khán đài bắc chính thức mang tên Patrice de Peretti (1972-2000), cố sáng lập viên đồng thời là lãnh đạo hội cổ động viên Marseille Trop Puissant.

;Khán đài nam Khán đài nam thường dành cho các hội cổ động viên Commando Ultras 1984, South Winners, Amis de l'OM, Club Central des Supporteurs.

;Livorno - AEK - Marseille Giữa ba đội bóng AS Livorno (Ý), AEK Athens (Hy Lạp), và Olympique Marseille có quan hệ rất mật thiết. Cổ động viên OM thường trưng biểu ngữ ủng hộ hai câu lạc bộ này.

Các mùa bóng của Olympique de Marseille

Các kỷ lục

  • Đội bóng Pháp duy nhất từng vô địch Champions League/European Cup: 1993
  • Bị thủng lưới ít nhất trong một mùa bóng: 21 bàn thua (mùa 1991-1992).
  • Thắng trên sân khách nhiều nhất trong một mùa: 12 trận (mùa 1971-1972). (kỉ lục ngang với Saint-Etienne và Lyon).
  • Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất trong một mùa: Josip Skoblar, 44 bàn, đoạt chiếc giày vàng châu Âu mùa 1970-1971.

Danh hiệu

OM đã 9 lần vô địch hạng nhất Pháp, xếp sau AS Saint-Étienne với 10 lần, Marseille hai lần đoạt "cú đúp" gồm chức vô địch hạng nhất và cúp quốc gia năm 1972 và 1989. Đội cũng là câu lạc bộ Pháp duy nhất từng vô địch UEFA Champions League với danh hiệu năm 1993.

Danh hiệu quốc tế

  • Tập tin:Coppacampioni.png UEFA Champions League/Cúp C1 ** Vô địch (1): 1993
  • UEFA Cup **Á quân (3): 1999, 2004, 2018
  • Cúp Intertoto: ** Vô địch (1): 2005

Danh hiệu trong nước

  • Division 1/Ligue 1 **Vô địch (9): 1937, 1948, 1971, 1972, 1989, 1990, 1991, 1992, 2010
  • Division 2 **Vô địch (1): 1995
  • Cúp bóng đá Pháp **Vô địch (10): 1924, 1926, 1927, 1935, 1938, 1943, 1969, 1972, 1976, 1989
  • Cúp Liên đoàn bóng đá Pháp ** Vô địch (3): 2010, 2011, 2012
  • Challenge des champions **Vô địch (3): 1971, 2010, 2011
  • Coupe Charles Drago ** Vô địch (1): 1957
  • Championnat de France Amateurs ** Vô địch (1): 1929

Danh hiệu vùng

  • Championnat DH Sud-Est ** Vô địch (4): 1927, 1929, 1930, 1931
  • Championnat USFSA Littoral ** Vô địch (6): 1904, 1905, 1906, 1907, 1908, 1919

Các giải giao hữu

  • 1 Tournament of Bruxelles (1937)
  • 1 Ludo Coeck Trophy (1987)
  • 1 Tournament of Auxerre (1988)
  • 1 Tournament of Marseille (1990)
  • 1 Tournament of Paris (1991)
  • 1 Tournoi de l'Amitié (1992)
  • 1 Mediterranean Cup (1995)
  • 1 Coupe des Rois (2000)
  • 1 Défi Celte TV Breizh (2001)
  • 1 Ciutat de Barcelona Trophy (2005)
  • 1 Challenge Michel Moretti (2008)

Cầu thủ

Đội hình hiện tại

.

Cho mượn

Đội dự bị và đội trẻ

Cầu thủ nổi tiếng

; Pháp

  • Manuel Amoros (1989-1993)
  • Fabien Barthez (1992-1995), (2002-2006)
  • Laurent Blanc (1997-1999)
  • Alain Boghossian (1993-1994)
  • Basile Boli (1990-1994)
  • Joseph Bonnel (1967-1973)
  • Éric Cantona (1988-1991)
  • Benoît Cauet (1987-1990)
  • Benoît Cheyrou (2007-nay)
  • Djibril Cissé (2006-2008)
  • Didier Deschamps (1989-1990), (1991-1994)
  • Éric Di Meco (1981-1986), (1988-1994)
  • Alou Diarra (2011-2012)
  • Jean Djorkaeff (1966-1970)
  • Jean-François Domergue (1986-1988)
  • Christophe Dugarry (1998-2000)
  • Mathieu Flamini (2003-2004)
  • William Gallas (1997-2001)
  • Bernard Genghini (1986-1988)
  • André-Pierre Gignac (2010-2015)
  • Alain Giresse (1986-1988)
  • Sabri Lamouchi (2005-2006)
  • Frank Leboeuf (2001-2003)
  • Bixente Lizarazu (2004-2005)
  • Steve Mandanda (2007-nay)
  • Florian Maurice (1998-2001)
  • Samir Nasri (2004-2008)
  • Dimitri Payet (2013-2015), (2017-nay)
  • Bruno N'Gotty (2001-2002)
  • Pascal Olmeta (1990-1993)
  • Robert Pirès (1998-2000)
  • Jean-Pierre Papin (1986-1992)
  • Loïc Rémy (2010-2013)
  • Franck Ribéry (2005-2007)
  • Franck Sauzée (1988-1990), (1991-1993)
  • Didier Six (1978-1980)
  • Mathieu Valbuena (2006-nay)
  • Sylvain Wiltord (2009)
  • Mario Zatelli (1935-1938), (1944-1948)
  • Jules Zvunka (1966-1973)
  • Claude Makélélé (1997-1998)
  • Marcel Desailly (1992-1993)
  • Jocelyn Angloma (1991-1994)
  • Marius Trésor (1972-1980)
  • Jean Tigana (1989-1991)
  • Ibrahim Ba (2002)
  • Yssa Christian Catulusi (1996-1998)

; Albania

  • Lorik Cana (2005-2009)

; Algérie

  • Brahim Hemdani (2001-2005)
  • Foued Kadir (2013-nay)
  • Karim Ziani (2007-2009)

; Argentina

  • Lucho González (2009-2012)
  • Gabriel Heinze (2009-2011)
  • Héctor Rial (1962-1963)
  • Héctor Yazalde (1976-1977)
  • Renato Civelli (2006-2007) (2008-2009)

; Bỉ

  • Daniel van Buyten (2001-2004)

; Bosnia

  • Blaž Slišković (1986-1987)

; Brasil

  • Sonny Anderson (1993-1994)
  • Brandão (2009-2012)
  • Hilton (2008-2011)
  • Jaguaré (1936-1939)
  • Jairzinho (1974-1975)
  • Paulo Cézar Lima (1974-1975)
  • Carlos Mozer (1989-1992)

; Bulgaria

  • Yordan Letchkov (1996-1997)

; Cameroon

  • Joseph-Antoine Bell (1985-1988)
  • Stéphane Mbia (2009-2012)
  • Nicolas Nkoulou (2011-nay))
  • François Omam-Biyik (1992)
  • Joseph Yegba Maya (1962-1970)

; Bờ Biển Ngà

  • Cyril Domoraud (1997-1999)
  • Didier Drogba (2003-2004)
  • Bakari Koné (2008-2010)

; Croatia

  • Alen Bokšić (1992-1993)
  • Vedran Runje (2001-2004)
  • Josip Skoblar (1966-1967), (1969-1975)

; Ai Cập

  • Mido (2003-2004)

; Đức

  • Klaus Allofs (1987-1989)
  • Karlheinz Förster (1986-1990)
  • Andreas Köpke (1996-1998)
  • Rudi Völler (1992-1994)

; Ghana

  • André Ayew (2007-2008) (2010-nay)
  • Jordan Ayew (2009-nay)
  • Abedi Pelé (1987-1989), (1990-1993)

; Anh

  • Joey Barton (2012-nay)
  • Laurie Cunningham (1984-1985)
  • Trevor Steven (1991-1992)
  • Chris Waddle (1989-1992)

; Ireland

  • Tony Cascarino (1994-1997)

; Ý

  • Angelo Bollano (1948-1950)
  • Fabrizio Ravanelli (1998-2000)

; Liberia

  • George Weah (2000-2001)

; Mali

  • Salif Keita (1972-1973)
  • Seydou Keita (1999-2000)

; Maroc

  • Larbi Benbarek (1938-1939), (1953-1955)

; Ba Lan

  • Piotr Świerczewski (2001-2003)

; Bồ Đào Nha

  • Paulo Futre (1993-1994)
  • Rui Barros (1993-1994)

; Hà Lan

  • Boudewijn Zenden (2007-2009)

; Nigeria

  • Taye Taiwo (2005-2011)

; Nga

  • Igor Dobrovolski (1992-1993)
  • Dmitri Sychev (2002-2004)

; Senegal

  • Habib Beye (2003-2007)
  • Souleymane Diawara (2009-nay)
  • Mamadou Niang (2005-2010)

; Serbia

  • Dragan Stojković (1990-1994)

; Tây Ban Nha

  • César Azpilicueta (2010-2012)
  • Rafael Martín Vázquez (1992)
  • Iván de la Peña (1999-2000)
  • Alfonso Pérez (2001-2002)

; Nam Phi

  • Piere Issa (1995-2000)
  • Steve Mokone (1958-1959)

; Thụy Điển

  • Gunnar Andersson (1950-1958)
  • Dan Ekner (1950-1951)
  • Klas Ingesson (2000-2001)
  • Anders Linderoth (1977-1980)
  • Roger Magnusson (1968-1974)

; Thụy Sĩ

  • Fabio Celestini (2002-2004)

; Uruguay

  • Enzo Francescoli (1989-1990)

Quả bóng vàng châu Âu

Cầu thủ đoạt giải Quả bóng vàng châu Âu khi đang chơi cho Olympique de Marseille:

  • Jean-Pierre Papin – 1991

Chiếc giày vàng châu Âu

Cầu thủ đoạt giải Chiếc giày vàng châu Âu khi đang chơi cho Olympique de Marseille:

  • Josip Skoblar (44 bàn) – 1971

Huấn luyện viên và chủ tịch nổi tiếng

__

;Huấn luyện viên

  • Mario Zatelli
  • Lucien Leduc
  • Raymond Goethals
  • Rolland Courbis
  • Tomislav Ivić
  • Franz Beckenbauer
  • Javier Clemente
  • Eric Gerets
  • Didier Deschamps
  • Marcelo Bielsa

;Chủ tịch

  • Marcel Leclerc
  • Bernard Tapie
👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Olympique de Marseille** (, ; , ), còn được gọi đơn giản là **Marseille** hoặc viết tắt **OM** (, ), là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp tại thành phố Marseille, Pháp; được
**Roberto De Zerbi** (, sinh ngày 6 tháng 6 năm 1979) là một huấn luyện viên bóng đá và cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý hiện đang là huấn luyện viên trưởng
**Marseille** là một thành phố cảng của nước Pháp. Marseille (phát âm tiếng Pháp , tiếng bản địa ; phương ngữ vùng Provençal Occitan: _Marselha_ theo phát âm chuẩn cổ điển hoặc tiếng Marsiho ở
**Samir Nasri** (sinh ngày 26 tháng 6 năm 1987 tại Marseille) là một cựu cầu thủ bóng đá người Pháp gốc Algérie. ## Cuộc sống cá nhân Giống như một số cầu thủ người Pháp
**Didier Yves Drogba Tébily** (; sinh ngày 11 tháng 3 năm 1978) là cựu cầu thủ bóng đá người Bờ Biển Ngà chơi ở vị trí tiền đạo. Anh là vua phá lưới mọi thời
**César Azpilicueta Tanco** (sinh ngày 28 tháng 8 năm 1989) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Tây Ban Nha hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ. Là một sản phẩm
**Olympique Lyonnais** (), thường được gọi đơn giản là **Lyon** () hay **OL**, là một câu lạc bộ bóng đá Pháp có trụ sở ở thành phố Lyon, vùng Auvergne-Rhône-Alpes. Câu lạc bộ thành lập
**Trận chung kết UEFA Champions League năm 1993** là trận chung kết đầu tiên của UEFA Champions League và là trận chung kết thứ ba mươi tám của Cúp C1 châu Âu. Đây là trận
**Mason Will John Greenwood** (sinh ngày 1 tháng 10 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Jamaica hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Ligue
**Marcel Desailly** (sinh 7 tháng 9 năm 1968 tại Accra, Ghana) là cựu cầu thủ bóng đá người Pháp gốc Ghana,ông được nhiều người coi là một trong Trung vệ và Tiền vệ phòng ngự
**Sân vận động Vélodrome** (, ; , ), được gọi là **Orange Vélodrome** vì lý do tài trợ, là một sân vận động đa năng ở Marseille, Pháp. Đây là sân nhà của câu lạc
**Igor Ivanovich Dobrovolski** (, , _Ihor Ivanovych Dobrovolskyi_; sinh ngày 27 tháng 8 năm 1967) là một cựu tuyển thủ Đội tuyển bóng đá quốc gia Liên Xô, Đội tuyển bóng đá quốc gia Nga,
**Lorik Agim Cana** (; sinh ngày 27 tháng 7 năm 1983) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Albania. Anh hiện là đại sứ cấp cơ sở cho bóng đá trẻ em
**Charles Kaboré** (sinh ngày 9 tháng 2 năm 1988) là một cầu thủ bóng đá từ Burkina Faso playing ở vị trí tiền vệ phòng ngự cho Dynamo Moskva. Sau nhiều năm thi đấu cho
**Sabri Lamouchi** (sinh ngày 9 tháng 11 năm 1971 tại Lyon, Pháp) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp đã từng chơi ở vị trí tiền vệ. Sinh ra ở Pháp, là người
**Ahmed Ben Bella** (tiếng Ả Rập: أحمد بن بلة Ahmad bin Billah; ngày 25 tháng 12 năm 1916 – 11 tháng 4 năm 2012) là một người lính xã hội chủ nghĩa Algeria và cách
**Florian Tristan Mariano Thauvin** (sinh ngày 26 tháng 1 năm 1993) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cánh hoặc tiền đạo và
**Athlético Marseille** (trước đây là **Groupe Sportif Consolat** và đôi khi được gọi là **Marseille Consolat**) là một câu lạc bộ bóng đá nghiệp dư Pháp được thành lập vào năm 1964 và có trụ
**Union Sportive Marseille Endoume Catalans** là một đội bóng đá Pháp thành lập năm 1925. Họ có trụ sở tại Marseille, Pháp. Họ chơi tại Stade le Cesne ở Marseille, có sức chứa 3.500. Endoume
**Taye Ismaila Taïwo** (sinh ngày 16 tháng 4 năm 1985 tại Lagos, Nigeria) là cầu thủ bóng đá người Nigeria hiện đang chơi cho câu lạc bộ Lausanne ở vị trí hậu vệ trái. Anh
**Trận chung kết Cúp C1 châu Âu năm 1991** là trận chung kết thứ ba mươi sáu của Cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu, ngày nay là UEFA Champions League.
**Girondins de Bordeaux**, tên đầy đủ: **Football Club des Girondins de Bordeaux**, là một câu lạc bộ bóng đá Pháp, có trụ sở tại thành phố Bordeaux. Ở bên ngoài Pháp câu lạc bộ thường
**Câu lạc bộ bóng đá Paris Saint-Germain** (thường được gọi là **Paris Saint-Germain**, , **Paris SG** hoặc đơn giản là **PSG**) là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp có trụ sở tại Paris,
**Hatem Ben Arfa** () (sinh 7 tháng 3 năm 1987 tại Clamart (Hauts-de-Seine) là cầu thủ bóng đá người Pháp gốc Tunisia ## Sự nghiệp câu lạc bộ ### Olympique Lyonnais Anh trưởng thành từ
**Jean-Pierre Papin** (sinh 5 tháng 11 năm 1963 tại Boulogne-sur-Mer, Pháp) là một trong những cầu thủ bóng đá xuất sắc của Pháp, giành Quả Bóng Vàng năm 1991. ## Sự nghiệp cầu thủ Bắt
**Antônio Augusto Ribeiro Reis Júnior** (sinh ngày 30 tháng 1 năm 1975), thường được gọi là **Juninho** hay **Juninho Pernambucano**, là một cựu cầu thủ bóng đá Brasil chơi ở vị trí tiền vệ và
**Franck Henry Pierre Ribéry** (; sinh ngày 7 tháng 4 năm 1983) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp. Anh ấy chủ yếu chơi như một cầu thủ chạy cánh, tốt
**Didier Claude Deschamps** (; sinh ngày 15 tháng 10 năm 1968) là huấn luyện viên và cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp. Ông hiện đang là huấn luyện viên trưởng của đội
Trận **chung kết UEFA Europa League 2018** là trận đấu cuối cùng của UEFA Europa League 2017–18, mùa giải thứ 47 của giải đấu bóng đá các câu lạc bộ cao thứ nhì châu Âu
**Nîmes Olympique** (thường được gọi đơn giản là **Nîmes**, viết tắt là **NO**) là một câu lạc bộ bóng đá Pháp có trụ sở tại Nîmes. Câu lạc bộ được thành lập vào ngày 10
**Seydou Keita** (sinh ngày 16 tháng 1 năm 1980 ở Bamako) là một cựu cầu thủ bóng đá người Mali. Anh có biệt danh "Seydoubilen" hay "Seydou đỏ", Keita là cháu của Salif Keita. ##
**Bouna Junior Sarr** (sinh ngày 31 tháng 1 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Sénégal hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cánh phải và tiền vệ cánh
**Loïc Rémy** (sinh ngày 2 tháng 1 năm 1987) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp Pháp đang chơi cho câu lạc bộ Crystal Palace ở Giải Ngoại hạng Anh và đội tuyển quốc
**Marius Trésor** (sinh 15 tháng 1 năm 1950 tại Sainte-Anne, Guadeloupe) là cựu cầu thủ bóng đá người Pháp, chơi ở vị trí hậu vệ, có tên trong danh sách 125 cầu thủ còn sống
**Eric Daniel Pierre Cantona** (; sinh ngày 24 tháng 5 năm 1966) là một nam diễn viên, đạo diễn, nhà sản xuất và cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp. Ông từng khoác
**Manuel Amoros** (sinh 1 tháng 2 năm 1962 tại Nîmes) là một cựu cầu thủ bóng đá Pháp, chơi ở vị trí hậu vệ. Ông đã khoác áo đội tuyển Pháp 82 lần, trong đó
**Florent Dimitri Payet** (sinh ngày 29 tháng 3 năm 1987), thường được biết đến với tên gọi **Dimitri Payet**, là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp hiện đang thi đấu ở vị
**Mathieu Pierre Flamini** (sinh ngày 7 tháng 3 năm 1984) là một cựu cầu thủ bóng đá và doanh nhân môi trường người Pháp. Ở vị trí tiền vệ, anh từng thi đấu cho câu
**Abédi Ayew**, cũng được biết đến với tên **Abédi "Pelé"** (sinh 5 tháng 11 năm 1964) từng là đội trưởng Đội tuyển bóng đá quốc gia Ghana. Ông từng 3 lần liên tiếp đạt giải
**Mario Balotelli Barwuah** (; sinh ngày 12 tháng 8 năm 1990) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cắm cho câu lạc bộ
**Amadou Jean Tigana** (sinh ngày 23 tháng 6 năm 1955) là một cựu cầu thủ bóng đá quốc tế người Pháp, từng chơi ở vị trí tiền vệ và quản lý bóng đá chuyên nghiệp
**Boudewijn Zenden** (sinh ngày 15 tháng 8 năm 1976 tại Maastricht) còn được biết đến với biệt danh "Bolo" là một cựu cầu thủ bóng đá người Hà Lan chơi ở vị trí tiền vệ
**Michy Batshuayi-Atunga** (sinh ngày 2 tháng 10 năm 1993) là cầu thủ bóng đá người Bỉ đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Fenerbahçe tại Süper Lig và đội tuyển
**Édouard Osoque Mendy** (sinh ngày 1 tháng 3 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Senegal hiện đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Saudi Pro
**Rudolf 'Rudi' Völler** (sinh ngày 13 tháng 4 năm 1960 ở Hanau, Hesse) () là cựu cầu thủ trung phong người Đức, và là cựu huấn luyện viên trưởng của Đức. Khi còn là tuyển
**Basile Boli** (sinh ngày 2 tháng 1 năm 1967) là một cầu thủ bóng đá người Pháp. Là cầu thủ ghi bàn thắng duy nhất trong chiến thắng 1-0 của Olympique Marseille trước AC Milan
**Mathieu Valbuena** (; sinh ngày 28 tháng 9 năm 1984) là cầu thủ bóng đá thuộc câu lạc bộ Olympiakos. Anh tuy nhỏ con nhưng nổi tiếng bởi kỹ thuật khéo léo, tốc độ cao
**Andreas Köpke** (, sinh ngày 12 tháng 3 năm 1962) là cựu thủ môn bóng đá người Đức , ông đã cùng Tây Đức vô địch World Cup 1990 (nhưng ông không được ra sân
**Piotr Jarosław Świerczewski** (; sinh ngày 8 tháng 4 năm 1972) là một cựu cầu thủ bóng đá Ba Lan. Trong sự nghiệp 20 năm thi đấu của mình, anh từng thi đấu cho Lech
**Abdelaziz Barrada** (19 tháng 6 năm 1989 – 24 tháng 10 năm 2024), hay còn được biết đến với tên gọi **Abdel**, là một cố cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp đã từng chơi ở