Nhà thờ chính tòa Speyer có tên chính thức là Vương cung thánh đường Nhà thờ chính tòa Hoàng gia Lễ thăng thiên của Đức mẹ đồng trinh và Thánh Stephen, trong tiếng Latinh là Domus sanctae Mariae Spirae (Đức: Dom zu Unserer lieben Frau in Speyer) là một nhà thờ chính tòa nằm ở Speyer, Đức. Đây là nhà thờ chính tòa của Giáo phận Speyer và Phó giám mục của Tổng giáo phận Bamberg. Đây là nơi dành riêng cho Đức Mẹ Maria, vị thánh bảo trợ của Speyer ("Patrona Spirensis") và thánh Stephen còn được biết đến là Kaiserdom zu Speyer (Nhà thờ chính tòa Hoàng gia Speyer). Giáo hoàng Piô XI là người đã sắc phong nhà thờ này là một tiểu vương cung thánh đường của Giáo hội Công giáo Rôma vào năm 1925.
Nó bắt đầu được xây dựng vào năm 1030 bởi Konrad II với cuối phía đông và vòm cao được xây dựng từ 1090–1103, với vòm vương cung thánh đường ba nhịp cột hoành tráng màu đỏ của đá sa thạch được coi là đỉnh cao của một thiết kế cực kỳ có ảnh hưởng trong sự phát triển tiếp theo của kiến trúc Roman trong 11 và 12. Đây là nơi chôn cất của hoàng đế và vua của Salier, Staufer và cả Habsburg khiến nó được coi là biểu tượng quyền lực của đế quốc. Với việc Tu viện Cluny chỉ còn lại một phần nhỏ do bị cướp phá năm 1790, Nhà thờ chính tòa Speyer trở thành nhà thờ mang kiến trúc Roman lớn nhất thế giới. Nó được coi là "một bước ngoặt trong kiến trúc châu Âu", một trong những di tích kiến trúc quan trọng nhất thời bấy giờ và là một trong những di tích La Mã đẹp nhất thế giới.
Năm 1981, nhà thờ này đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới nhờ tầm quan trọng về văn hóa như là một tượng đài lớn của nghệ thuật Roman ở Đế chế Đức.
Lịch sử và kiến trúc
Trung cổ
Vào năm 1025, Konrad II đã ra lệnh xây dựng nhà thờ lớn nhất của thế giới Kitô giáo phía tây ở Speyer, nơi cũng được cho là nơi an nghỉ cuối cùng của ông. Việc xây dựng bắt đầu vào năm 1030 trên khu vực của một vương cung thánh đường cũ nằm trên một cao nguyên cao ngay bên phải sông Rhein nhưng an toàn khi nước dâng cao. Cùng với Santiago de Compostela (bắt đầu vào năm 1075), tu viện Cluny (Cluny III, bắt đầu vào năm 1085) và Nhà thờ chính tòa Durham (bắt đầu vào năm 1093) là những dự án đầy tham vọng nhất lúc bấy giờ. Đá sa thạch đỏ được sử dụng xây dựng lấy từ những ngọn núi của khu rừng Pfalz và được cho là được chuyển xuống bằng kênh Speyerbach, một dòng suối chảy từ những ngọn núi vào sông Rhein tại Speyer. Cả Konrad II và con trai của ông là Heinrich III đều không thể kịp thấy công trình vĩ đại này hoàn thành. Konrad II qua đời năm 1039 và được chôn cất trong nhà thờ khi nó vẫn đang được xây dựng còn Heinrich III thi hài cũng được đặt bên cạnh cha của mình vào năm 1056. Hai ngôi mộ được đặt ở lối đi trung tâm phía trước bàn thờ.
Khi gần hoàn thành, nhà thờ được thánh hiến vào năm 1061. Giai đoạn xây dựng này được gọi là Speyer I bao gồm công trình phía tây, một gian giữa với hai lối đi và một cánh ngang liền kề. Dàn hợp xướng nằm bên sườn bởi hai tòa tháp. Hậu cung ban đầu là một hình tròn bên trong nhưng bên ngoài là hình chữ nhật. Gian giữa được bao phủ bởi một trần gỗ phẳng nhưng các lối đi đã được uốn vòm, khiến cho nó trở thành nhà thờ chính tòa uốn vòm lớn thứ hai ở phía bắc dãy Anpơ sau nhà thờ chính tòa Aachen. Nó được coi là kết quả tuyệt vời nhất của kiến trúc Salier đầu tiên và "đỉnh cao của một thiết kế có ảnh hưởng cực kỳ lớn trong sự phát triển tiếp theo của kiến trúc Roman trong thế kỷ 11 và 12.
Khoảng năm 1090, cháu trai của Konrad II là Heinrich IV đã tiến hành một tái thiết đầy tham vọng để mở rộng thánh đường. Ông đã phá hủy các phần phía đông và nền móng được thi công ở độ sâu tới 8 mét. Chỉ có các tầng thấp hơn và hầm mộ của Speyer I là được giữ nguyên. Gian giữa được nâng lên 5 mét và trần gỗ phẳng thay thế bằng một vòm nhọn vuông, một trong những thành tựu nổi bật của kiến trúc Roman. Mỗi vòm kéo dài hai nhịp của mặt chiếu. Mỗi hai cột được bổ sung thêm một trụ liền tường rộng hoặc dosseret hình thành lên hệ thống trụ tường trong. Các thân cột được gắn vào tường xuất hiện ở các tòa nhà dọc theo sông Loire (St. Benoit-sur-Loire, Auxerre, Loches) sau đó lan rộng ra khắp các vùng Normandie và Rheinland.
Ví dụ đương đại duy nhất khác về hệ thống nhịp như vậy là ở nhà thờ San Vincente ở Cardona, Tây Ban Nha. Hệ thống hai nhịp của Speyer hoạt động như một sự hỗ trợ cho các vòm đá đã được sao chép trong nhiều di tích dọc theo sông Rhein. Việc bổ sung các vòm nhọn giúp cho việc kết hợp các cửa sổ nóc vòm có thể thực hiện được chức năng của nó mà không làm yếu cấu trúc. Kết quả là một phần trong trợ lực của công trình kỷ niệm, mặc dù lộ hẳn ra và có dạng lăng trụ so với các công trình Pháp cùng thời nhưng nó đã truyền tải một cách ấn tượng về vẻ trang trọng của kiến trúc Roman, một điều rất đáng chú ý tương thích nhà thờ là một thước đo về kỳ vọng chính trị của Heinrich IV.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nhà thờ chính tòa Speyer** có tên chính thức là _Vương cung thánh đường Nhà thờ chính tòa Hoàng gia Lễ thăng thiên của Đức mẹ đồng trinh và Thánh Stephen_, trong tiếng Latinh là
**Nhà thờ Hoàng đế Đức** () là một từ ngữ truyền thống để chỉ các nhà thờ lớn, mà có liên hệ đến quyền lực của hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh. ##
**Richard I** (8 tháng 9 năm 1157 – 6 tháng 4 năm 1199) là Quốc vương nước Anh từ 6 tháng 7 năm 1189 cho tới khi mất. Ông cũng là Công tước của Normandy,
Dưới đây là danh sách các Di sản thế giới do UNESCO công nhận tại châu Âu. ## Albania (4) trái|nhỏ|Trung tâm lịch sử của [[Berat]] * Butrint (1992) * Trung tâm lịch sử của
**Heinrich IV** (11 tháng 11 năm 1050 – 7 tháng 8 năm 1106) là con trai đầu của hoàng đế Heinrich III và nữ hoàng Agnes. Ông là Vua La Mã Đức từ năm 1056,
right|thumb|[[Phân tầng xã hội truyền thống của những nước phương tây trong thế kỷ XV]] right|thumb **Giáo hội và nhà nước ở châu Âu thời trung cổ** nêu rõ sự tách biệt nguyên tắc phân
Là nơi xuất phát của Giáo hội, Công giáo ở châu Âu phát triển mạnh trên một diện tích khá rộng, bao phủ gần hết các quốc gia Latinh như Italia, Pháp, Tây Ban Nha.
**Goslar** () là một thị xã lịch sử nằm ở bang Hạ Sachsen, Đức. Đây là trung tâm hành chính của Goslar, trên sườn tây bắc dãy núi Harz. Phổ cổ của Goslar và các
**Maximilian II** (31 tháng 7 năm 1527 – 12 tháng 10 năm 1576) là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ năm 1564 cho đến khi ông qua đời năm 1576. Là thành viên của
Tính đến ngày 31/5/2018, Giáo hội Công giáo bao gồm 3,160 khu vực thuộc quyền tài phán giáo hội, trong đó có 645 Tổng giáo phận và 2,236 Giáo phận, cũng như Đại diện Tông
**Kiến trúc Romanesque** là một phong cách kiến trúc của châu Âu Trung Đại, đặc trưng bởi các vòm nửa hình tròn. Người ta chưa đạt được đồng thuận về thời điểm bắt đầu của
thumb|[[Cửa sổ hoa hồng và Kính màu ghép ở cánh phía bắc Nhà thờ chính tòa Đức Bà Chartres ở Chartres, Pháp]] thumb|Ánh sáng mặt trời rọi qua kính màu ghép vào nhà thờ Hồi
[[Tập tin:Flag of Germany.svg|thumb|
Tập tin:Welterbe.svg Tập tin:UNESCO logo.svg ]] thumb|[[Thung lũng Elbe ở Dresden cùng với Cầu Waldschlösschen, Di sản thứ hai bị loại ra khỏi danh sách Di sản thế giới của UNESCO.]]**Helmut Josef Michael Kohl** (3 tháng 4 năm 1930 – 16 tháng 6 năm 2017) là một chính khách và chính trị gia bảo thủ Đức. Ông từng là Thủ tướng Đức từ năm 1982
**Heidelberg** là một thành phố lớn nằm cạnh sông Neckar ở tây-nam của nước Đức trong bang Baden-Württemberg. Thành phố nổi tiếng thế giới vì có phế tích Lâu đài Heidelberg và khu phố cổ
**Đan viện Maulbronn** () nguyên là một đan viện của dòng tu Xitô ở ngoại ô của thành phố Maulbronn (Đức). Gần đấy là thành phố lớn Pforzheim trong bang Baden-Württemberg. Đan viện này được
**Lịch sử Áo** là lịch sử của nước Áo ngày nay và các quốc gia tiền thân của nó từ đầu thời kỳ đồ đá cho đến nay. Tên _Ostarrîchi_ (Áo) đã được sử dụng
**Christian III** (12 tháng 8 năm 1503 - 1 tháng 1 năm 1559) là vua của Đan Mạch từ năm 1534 cho đến khi ông qua đời và là vua Na Uy từ năm 1537
Giáo hội Công giáo dành một sự tôn kính đặc biệt cho **Maria** (mẹ của Chúa Giêsu). Điều này được dựa trên những quy điển của Kinh Thánh về màu nhiệm nhập thể của Con
Lãnh thổ của đế quốc Francia, 481–814 SCN. **Người Frank** (phát âm như "Phrăng", hay _gens Francorum_) hoặc **người Francia** là một liên minh các sắc tộc Germanic được ghi nhận sống ở hạ lưu
**Jean Joseph Marie Gabriel de Lattre de Tassigny** (, 2 tháng 2 năm 1889 – 11 tháng 1 năm 1952) là đại tướng Pháp trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai và Chiến
**Ludwig IV** còn gọi là **Ludwig der Bayer** (5 tháng 4 1282 ở München - 11 tháng 10, 1347 tại Puch gần Fürstenfeldbruck), xuất thân từ nhà Wittelsbach, là Vua La Mã Đức từ năm
**Kempten** là một thành phố không thuộc huyện nào ở Allgäu, thuộc vùng hành chính Bayrischer Schwaben trong bang Bayern, Đức. Thành phố có diện tích 63,29 km², dân số là 68.940 người (tính đến
**Chiến tranh nông dân ở Đức** (hay **cuộc cách mạng của thường dân**) là toàn bộ các cuộc nổi dậy của nông dân, những người ở thành thị và các công nhân hầm mỏ, bùng
thumb|Người Do Thái đi [[lính Mỹ phục vụ cho tổ quốc Hoa Kỳ]] **Người Mỹ gốc Do Thái**, hoặc người **Do Thái Hoa Kỳ** (tiếng Anh: _American Jews_ hay _Jewish Americans_), (Tiếng Do Thái: יהודי
nhỏ|phải|Ấn bản Kinh Thánh Geneva năm 1560. **Kháng cách** hay còn gọi là **Tin Lành**, là một nhánh của Kitô giáo (_Cơ Đốc giáo_, _Thiên Chúa giáo_), với số lượng tín hữu hơn 900 triệu
**Edith Stein** tức **Thánh Têrêsa Benedicta Thánh Giá**, cũng thường gọi là **thánh Edith Stein** (12.10.1891 – 9.8.1942), là một triết gia và nữ tu sĩ Công giáo người Đức, được Giáo hội Công giáo
**Bộ Luật Napoleon** (tiếng Pháp: **_Code Napoléon_**; chính thức là **Code civil des Français**, gọi là **(le) Code civil**) là bộ dân luật Pháp ban hành năm 1804 trong thời Tam Đầu Chế Pháp. Bộ
thumb|Bản đồ đế quốc La Mã Thần Thánh dưới triều Hoàng đế [[Karl IV của Thánh chế La Mã|Karl IV]] **Đế quốc La Mã Thần Thánh** (tiếng Latinh: _Sacrum Romanum Imperium_; tiếng Đức: _Heiliges Römisches
Các quốc gia trên thế giới có đặt căn cứ quân sự của Hoa Kỳ. **Chủ nghĩa đế quốc Mỹ** () là một thuật ngữ nói về sự bành trướng chính trị, kinh tế, quân
**Cơ mật viện Tôn kính nhất Quốc vương Bệ hạ** (), thường được gọi là **Cơ mật viện Anh**, là cơ quan tư vấn chính thức cho quân chủ của Vương quốc Liên hiệp Anh