✨Mục đích luận trong sinh học

Mục đích luận trong sinh học

Mục đích luận trong sinh học (Teleology in biology) là việc diễn giải có chủ ý đặt thuyết mục đích luận (Teleology) hướng đến mục tiêu trong những giải thích về sự thích nghi của quá trình tiến hóa (còn gọi là Teleonomy), điều mà một số nhà sinh học và triết học khoa học nhận thấy là có vấn đề. Trước Darwin, các sinh vật được coi là tồn tại bởi vì Chúa đã thiết kế và tạo ra chúng (ngày nay còn được biết đến là Thiết kế thông minh), các đặc điểm của chúng chẳng hạn như những con mắt đã được thần học tự nhiên tạo ra để cho phép chúng thực hiện các chức năng của mình, chẳng hạn như nhìn ngắm thế giới này và đó là mục đích của chúng.

Các nhà sinh vật học và các nhà tư tưởng tôn giáo bất đồng cho rằng bản thân quá trình tiến hóa bằng cách nào đó được hướng tới mục tiêu (Orthogenesis) và trong các phiên bản thuyết sinh tồn, được thúc đẩy bởi/từ nguồn sinh lực, nguồn năng lực có mục đích (Luận cứ mục đích) nói gọn là việc gán cho tiến hóa một mục đích. Những quan điểm như vậy ngày nay đã bị mất uy tín, với quá trình tiến hóa diễn ra từ sự chọn lọc tự nhiên tác động lên sự biến đổi di truyền, việc sử dụng teleology (mục đích luận) trong sinh học đã thu hút sự chỉ trích, và những nỗ lực đã được thực hiện để dạy học sinh tránh xa thuyết này. Tuy nhiên, các nhà sinh vật học vẫn thường viết về sự tiến hóa như thể các sinh vật có mục tiêu mục đích cụ thể, rõ ràng.

Theo khoa học thì chọn lọc tự nhiên là sự bảo tồn những cá thể biến dị và những biến đổi có lợi, đào thải những sai dị cá thể và những biến đổi có hại. Chọn lọc tự nhiên có tính chất tự phát, không có mục đích định trước nhưng dần đi đến kết quả làm cho các loài ngày một thích nghi với điều kiện sống phù hợp với quy luật. Nó gồm hai quá trình song song là đào thải những biến dị có hại, đồng thời tích luỹ những biến bị có lợi kết quả là quá trình sống sót của những sinh vật thích nghi nhất. Nó được dựa trên hai đặc tính cơ bản là biến dị và di truyền. Động lực của chọn lọc tự nhiên là một quá trình đấu tranh sinh tồn dẫn đến kết quả là sự tồn tại của những sinh vật thích nghi với điều kiện sống. Nó là nhân tố chính trong quá trình tiến hoá của các loài, làm cho các loài biến đổi theo hướng có lợi, thích nghi với điều kiện sống.

Tranh luận

Các nhà tư tưởng tôn giáo và nhà sinh vật học đã nhiều lần cho rằng sự tiến hóa được thúc đẩy bởi một loại thế lực nào đó, một triết học được gọi là thuyết sinh tồn, và thường cho rằng nó có một số loại mục tiêu hoặc phương hướng (hướng tới mà những nỗ lực này sẽ phấn đấu để đạt đến), được gọi là quá trình phát sinh trực quan hoặc quá trình tiến hóa; một số người ủng hộ thuyết hình sinh coi nó là một sức mạnh tinh thần, trong khi những người khác cho rằng nó hoàn toàn thuộc về lĩnh vực sinh học, nhà phôi học người Nga Karl Ernst von Baer tin vào một thế lực xa xăm nào đó trong tự nhiên trong khi nhà triết học tâm linh người Pháp Henri Bergson lại gắn kết thuyết hình sinh với thuyết sinh tồn, lập luận về một thế lực sáng tạo trong tiến hóa được gọi là élan và được nêu trong cuốn sách của ông có tên Tiến hóa Sáng tạo (1907)

Nhà sinh vật học Công giáo Kenneth Miller chủ trương có sự tương hợp giữa thuyết Tiến Hoá và đức tin tôn giáo cho rằng loại trừ Thiên Chúa ra khỏi sự sáng tạo, làm cho con người mất đi căn bản đạo đức, thì thuyết Tiến Hoá không chỉ là sai nhưng thật sự là nguy hiểm. Quan điểm cuả ông cho rằng sự tiến hóa là phản ánh cái mục đích của Thiên Chúa để tạo ra những sinh vật tự do có khả năng yêu thật sự, so sánh với quan điểm trái ngược của các nhà khoa học khác kết luận rằng sự tiến hóa có nghĩa là vũ trụ là không có ý định thì cả hai đều không thể kết luận là khoa học. Tiến Hóa không phải là ngẫu nhiên, quá trình tiến hoá sinh học đi theo con đường gọi là "thích nghi không gian" và hoạt động trong khuôn khổ cuả vật lý và hóa học.

Nhà lý sinh học người Pháp Pierre Lecomte du Noüy và nhà thực vật học người Mỹ Edmund Ware Sinnott đã phát triển các triết lý tiến hóa quan trọng lần lượt được gọi là thuyết viễn tưởng. Quan điểm của họ bị chỉ trích nặng nề là phi khoa học nhà cổ sinh vật học George Gaylord Simpson lập luận rằng Du Noüy và Sinnott đang thúc đẩy các phiên bản tôn giáo của sự tiến hóa. Nhà cổ sinh vật học của Dòng Tên Pierre Teilhard de Chardin lập luận rằng quá trình tiến hóa nhằm mục đích hướng tới một "Điểm Omega" tâm linh mà ông gọi là "sự nhạy cảm có định hướng". Với sự xuất hiện của thuyết tiến hóa tổng hợp hiện đại, trong đó các cơ chế di truyền của quá trình tiến hóa được khám phá, giả thuyết về sự phát sinh trực quan phần lớn đã bị các nhà sinh vật học từ bỏ, đặc biệt là với lập luận của Ronald Fisher trong cuốn sách The Genetical Theory of Natural Selection năm 1930 của ông

Phép biện luận của Watchmaker lập luận rằng sự hiện diện của một cơ chế phức tạp như một chiếc đồng hồ ngụ ý sự tồn tại của một nhà thiết kế có ý thức và thần học liên kết với ý tưởng về thần học tự nhiên thời tiền Darwin, rằng thế giới tự nhiên vốn đã là cung cấp bằng chứng về thiết kế có ý thức và ý định có lợi của một người sáng tạo, như trong các tác phẩm của John Ray. William Derham tiếp tục kế thừa John Ray với những cuốn sách như Thần học Sinh lý (Physico-Theology) năm 1713 và Thần học Chiêm tinh (Astro-Theology) năm 1714 của ông.

Đến lượt mình, họ đã ảnh hưởng đến William Paley, người đã viết một lập luận chi tiết về thần học cho Chúa vào năm 1802 có tên là Natural Theology, or Evidences of the Existence and Attributes of the Deity collected from the Appearances of Nature (tạm dịch: Thần học tự nhiên, hoặc Các bằng chứng về sự tồn tại và thuộc tính của vị thần được biết đến từ Sự xuất hiện của Đấng Thiên nhiên) khởi phát từ quan điểm của Watchmaker. Những thuyết sáng tạo như vậy, cùng với một sinh lực quan trọng và sự tiến hóa di truyền có định hướng, đã bị hầu hết các nhà sinh vật học bác bỏ

Lý thuyết chọn lọc tự nhiên của Darwin đã khiến thuyết cứu cánh (teology) hay mục đích luận cho rằng mọi sự vật đều có mục đích nội tại trở nên không cần thiết. Kể từ thời Hy Lạp, đã có một niềm tin phổ biến về sự tồn tại của một nguyên nhân chi phối sự diễn biến của toàn thế giới và cái "nguyên nhân cuối cùng" này là một trong những nguyên nhân được Aristote chỉ. Sau khi không thành công khi cố gắng giải thích các hiện tượng sinh học, E.Kant cũng đã phải nhờ đến nguyên nhân của thuyết cứu cánh. Sau năm 1859, những giải thích dựa trên thuyết cứu cánh cũng vẫn tiếp tục được sử dụng khá phổ biến trong sinh học tiến hóa. Darwin tin vào tính phổ quát của sự ngẫu nhiên và may rủi qua quá trình chọn lọc tự nhiên, chỉ bước đầu tiên trong chọn lọc tự nhiên, sự tạo ra các biến đổi mới là vấn đề của sự ngẫu nhiên nhưng bước thứ hai, sự chọn lọc thực tế lại là có tính định hướng. Nhiều nhà sinh học và triết học đã chối bỏ sự tồn tại của các định luật phổ quát trong sinh học và đề xuất rằng, tất cả những hiện tượng mang tính quy luật nên được phát biểu theo lý thuyết xác suất.

Vấn đề tiến hóa

Sự hiện diện của định luật thứ hai của nhiệt động lực học (hay còn gọi là nguyên lý bất định và vô trật tự (Entropy Law), là động lực làm cho một hệ kín vật lý luôn tiến triển theo chiều hướng xấu đi và tan rã) nhưng những nguyên tắc dẫn đường cho niềm tin mục đích luận trong tiến hóa là những biểu hiện rõ ràng rằng mọi yếu tố trong quá trình phát triển luôn có khuynh hướng trở nên phức tạp hơn và sự phức tạp khi đạt đến một mức nào đó sẽ có nguy cơ đổ vỡ và tự hủy hoại và để tránh nó những điều kiện môi trường thích hợp và hỗ trợ cho sự phức tạp mới sinh ra và phát triển sẽ nhằm hình thành một trình độ phức tạp cao cấp hơn. Về phương diện của vật lý và tiến hóa học, mục tiêu sự phát triển/tiến hóa của vũ trụ không phải là bản thân của sự sống, mà đó là một quá trình truyền đạt thông tin từ đơn giản đến phức tạp trên nền tảng hoạt hóa các dạng năng lượng tiềm ẩn từ thấp đến cao. Werner Gitt cho rằng: "Theo quan điểm công nghệ, hệ mã hóa được sử dụng cho sinh vật là tối ưu. Sự thật này củng cố quan điểm đây là một thiết kế có mục đích rõ ràng, thay vì một sự may rủi ngẫu nhiên".

Theo thuyết tiến hóa thì "Tiến hóa là sinh vật thích nghi với môi trường". Nhưng Jean-Baptiste Lamarck đã đề xuất rằng sinh vật tiến hoá bằng cách phát triển một số đặc điểm trong kiếp sống của chúng và sau đó truyền lại cho con cái của mình ví dụ như hươu cao cổ đã dành cả đời vươn người đến lá trên cành cao, con cái của chúng sẽ được sinh ra với những chiếc cổ dài, nhưng cơ chế di truyền thừa kế không hoạt động như thế. Trên thực tế, các cá thể không hề tiến hoá. Thay vào đó, các đột biến gen ngẫu nhiên ở một số con hươu cao cổ khiến chúng được sinh ra với chiếc cổ dài, và điều đó mang lại cho chúng một cơ hội tốt hơn để sống sót so với những con không được may mắn như vậy và đó là "sự sống sót của các cá thể phù hợp nhất".

Triết gia Hy Lạp Aristotle từng đề ra lý thuyết về Scala naturae (Chuỗi sinh tồn vĩ đại). Ông tin rằng tất cả các loài thực vật và động vật đều duy trì những đặc điểm mà chúng vốn có khi được tạo ra và không tiến hóa thành các loài khác, mọi loài thực vật và động vật đều có một vị trí nhất định trong tự nhiên và để phục vụ cho mục đích mà vì thế chúng tồn tại. Theo Aristotle, thực vật là dạng sống đơn giản nhất. Từ đó, chuỗi động vật tiến triển một cách phức tạp cho đến khi cuối cùng chúng ta có được con người. Giả thuyết đột biến được nhà thực vật học người Hà Lan Hugo de Vries đề xuất vào năm 1901 tương tự như thuyết Darwin, trừ việc Vries cho rằng các loài mới được tạo ra bởi đột biến một lần đột ngột và không thay đổi dần dần như lý thuyết tiến hóa của Darwin. De Vries cũng tin rằng các đột biến là ngẫu nhiên, trong khi Darwin đề xuất rằng chúng là có mục đích.

Một số triết gia của thời đại cổ điển gồm cả Empedocles và nhà thơ La Mã Lucretius, bày tỏ ý tưởng cho rằng tự nhiên sinh ra nhiều loại sinh vật một cách ngẫu nhiên, và chỉ những sinh vật có thể sống sót và sinh sản thành công mới tồn tại lâu dài. Trong Quyển II của sách Physics, Aristotle đã chỉ trích tư tưởng của Empedocles khi cho rằng các sinh vật hình thành hoàn toàn là do hoạt động ngẫu nhiên của các nguyên nhân như nóng và lạnh. Ông đặt vị trí mục đích luận vào vị trí của nó, và tin rằng hình thức này hoàn toàn là có mục đích, đồng thời trích dẫn tính di truyền đều đặn ở các loài như một bằng chứng. Tuy nhiên, ông thừa nhận trong thuyết sinh học rằng các loại động vật mới, quái thai (τερας), có thể xuất hiện trong những trường hợp rất hiếm (Generation of Animals, Quyển IV). Trích dẫn trong ấn bản năm 1872 của Darwin về Nguồn gốc các loài, Aristotle đã xem xét liệu các dạng khác nhau (ví dụ, răng) có thể đã xuất hiện một cách ngẫu nhiên hay là không, hay chỉ những dạng hữu ích mới tồn tại:

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mục đích luận trong sinh học** (_Teleology in biology_) là việc diễn giải có chủ ý đặt thuyết mục đích luận (Teleology) hướng đến mục tiêu trong những giải thích về sự thích nghi của
**Mục đích luận** hay **cứu cánh luận** () là thuyết triết học cho rằng mọi vật trong tự nhiên đều có một "mục đích cuối cùng". Thuyết này được các nhà thông thái Hy Lạp
**Luận cứ mục đích** hay **luận cứ thiết kế** (_teleological argument_) là một luận cứ cho sự tồn tại của Chúa trời hoặc của một đấng sáng tạo, dựa trên các bằng chứng tri giác
thumb|right|348x348px|Bìa của bài thơ có chủ đề tiến hóa của [[Erasmus Darwin, _Temple of Nature_ cho thấy một nữ thần vén bức màn bí ẩn của thiên nhiên (bên trong là Artemis). Tượng trưng và
Trong sinh học tiến hóa, **chức năng** là nguyên nhân một vài đối tượng hoặc quá trình xảy ra ở một hệ thống tiến hóa thông qua chọn lọc tự nhiên. Nguyên nhân ấy thường
thumb|Đã có nhiều cố gắng trong việc bảo tồn các yếu tố tự nhiên đồng thời có thể duy trì việc cho du khách tham quan tại [[Hopetoun|thác Hopetoun, Úc.]] **Sinh học bảo tồn** (_Conservation
phải|Cấu trúc của [[insulin.]] liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp tin:Insulincrystals.jpg|nhỏ|Tinh thể [[insulin]] **Công nghệ sinh học** là một lĩnh vực sinh học rộng lớn, liên quan đến việc sử dụng các hệ thống sống và sinh vật để phát
**An toàn sinh học** có nhiều ý nghĩa và được định nghĩa khác nhau theo các chuyên ngành khác nhau. Định nghĩa ban đầu về an toàn sinh học bắt đầu như một bộ các
thumb|upright=1.20|[[Axit nucleic có thể không phải là dạng phân tử duy nhất trong vũ trụ có khả năng mã hóa các quá trình sống.]] **Sinh học vũ trụ** là lĩnh vực nghiên cứu về nguồn
**Tin sinh học** (_bioinformatics_) là một lĩnh vực khoa học sử dụng các công nghệ của các ngành toán học ứng dụng, tin học, thống kê, khoa học máy tính, trí tuệ nhân tạo, hóa
nhỏ|242x242px|Con [[đom đóm, _Photinus pyralis,_ đang bay và phát sáng]] **Phát quang sinh học** là sự tạo và phát xạ ánh sáng bởi một sinh vật sống. Đây là một dạng ánh sáng hóa học.
**Sinh học lượng tử** là ngành ứng dụng cơ học lượng tử và hóa học lý thuyết vào các khía cạnh của sinh học không thể được diễn giải một cách chính xác bằng các
nhỏ|380x380px|Các tính năng cần thiết của phòng thí nghiệm [[an toàn sinh học cấp 4 (BSL-4)]] **Cấp độ an toàn sinh học** (tiếng Anh viết tắt là **BSL**) hoặc **cấp độ bảo vệ/mầm bệnh** là
**Đạo đức sinh học** là nghiên cứu về các vấn đề đạo đức nổi lên từ những tiến bộ trong sinh học và y học. Đó cũng là sự phân biệt đạo đức vì nó
nhỏ|Vòng đời của mực Nautilus. Trong sinh học, **biểu sinh** là quá trình phát triển của cơ thể sinh vật từ cấu trúc sinh học ban đầu (hạt, mầm, bào tử, trứng...) qua một chuỗi
**Nghị định thư Cartagena về an toàn sinh học đối với Công ước về đa dạng sinh học** là một thỏa thuận quốc tế về an toàn sinh học bổ sung cho Công ước về
**Công ước Vũ khí Sinh học (BWC)** hoặc **Công ước Vũ khí Sinh học và Độc tố (BTWC)** là một hiệp ước giải trừ quân bị về vũ khí sinh học và độc tố bằng
**Mất đa dạng sinh học** là sự tuyệt chủng của các loài (thực vật hoặc động vật) trên toàn thế giới, và cũng là sự suy giảm hoặc biến mất của loài tại địa phương
thumb|Một số đặc điểm của đồng hồ sinh học con người (24 giờ) **Nhịp điệu sinh học hằng ngày** () là bất kỳ quy trình sinh học nào hiển thị một dao động nội sinh,
**Phòng thủ sinh học** đề cập đến các biện pháp khôi phục an toàn sinh học cho một nhóm các sinh vật đang hoặc có thể bị các mối đe dọa sinh học hoặc các
nhỏ| [[Boris Karloff trong bộ phim _Frankenstein_ năm 1931 của James Whale, dựa trên cuốn tiểu thuyết năm 1818 của Mary Shelley. Con quái vật được tạo ra bởi một thí nghiệm sinh học không
**Mục đích cuối cùng**, hay còn gọi là **mục đích tối hậu**, hay **_telos_** (tiếng Hy Lạp: _τέλος_ có nghĩa là mục đích, cuối cùng, lý do), là điểm đến cuối cùng của mục đích,
phải|nhỏ|380x380px| Hệ thực vật núi cao tại Đèo Logan, [[Vườn quốc gia Glacier (Hoa Kỳ)|Vườn quốc gia Glacier, ở Montana, Hoa Kỳ: Thực vật núi cao là một nhóm được cho là rất dễ bị
phải|nhỏ| Ví dụ về sự đa dạng sinh học đa bào của Trái Đất. **Đa dạng sinh học toàn cầu** là thước đo đa dạng sinh học trên hành tinh Trái Đất và được định
**Liên hiệp Hội Vi sinh học Quốc tế** hay **Liên đoàn Quốc tế các Hiệp hội Vi sinh học**, viết tắt tiếng Anh là **IUMS** (International Union of Microbiological Societies) là một _tổ chức phi
nhỏ|250x250px| Nấm mốc màu vàng phát triển trên một thùng giấy ướt **Phân hủy sinh học** là sự phân hủy chất hữu cơ của các vi sinh vật, chẳng hạn như vi khuẩn, nấm. ##
nhỏ|348x348px|Tượng _[[Người suy tư_ của Auguste Rodin là một biểu tượng của tư tưởng triết lý.]] **Triết học** (; ) là một ngành nghiên cứu có hệ thống về những vấn đề cơ bản và
Mối quan hệ giữa **sinh học và xu hướng tính dục** là một đối tượng trong công tác nghiên cứu. Mặc dù các nhà khoa học không biết được nguyên nhân cụ thể hình thành
**_Báo cáo Đánh giá Toàn cầu về Đa dạng sinh học và Dịch vụ Hệ sinh thái_** là một báo cáo được phát hành vào ngày 6 tháng 5 năm 2019 bởi Nền tảng chính
Sách Sơ Học Luân Lý do tác giả Trần Trọng Kim biên soạn nhằm mục đích hướng dẫn cho học sinh lớp tiểu học thời kỳ nửa đầu thế kỷ XX những hiểu biết cơ
nhỏ|phải|Con [[tê giác là thần thú huyền thoại trong truyền thuyết, chúng được ví như linh vật kỳ lân]] nhỏ|phải|Các loài [[côn trùng có vai trò thầm lặng nhưng thiếu yếu]] nhỏ|phải|Tôm hùm [[BBQ, trong
Các **dịch vụ hệ sinh thái** là rất nhiều và nhiều lợi ích khác nhau đối với con người được ban tặng bởi môi trường tự nhiên và từ các hệ sinh thái lành mạnh.
**Thuyết trực sinh** hay **tiến hóa trực sinh** () là một giả thuyết sinh học đã lỗi thời cho rằng các sinh vật có khuynh hướng tiến hóa bẩm sinh theo lộ trình tất định
nhỏ|Chương trình L'Oréal-UNESCO cho phụ nữ trong khoa học **Giải L'Oréal-UNESCO cho phụ nữ trong khoa học** (tiếng Anh: **L'Oréal-UNESCO Awards for Women in Science**) là một giải thưởng được thiết lập năm 1998 nhằm
**Pháp Luân Công** hay **Pháp Luân Đại Pháp** là một phong trào tôn giáo mới. Pháp Luân Công được Lý Hồng Chí sáng lập ở Trung Quốc vào đầu những năm 1990. Pháp Luân Công
**Dịch vụ mạng xã hội** (tiếng Anh: **social networking service** – **SNS**) là dịch vụ nối kết các thành viên cùng sở thích trên Internet lại với nhau với nhiều mục đích khác nhau không
nhỏ|Những hình ảnh liên quan đến cuộc trấn áp Pháp Luân Công **Cuộc đàn áp Pháp Luân Công** đề cập đến chiến dịch được khởi xướng bởi Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với các
nhỏ|[[Peterhouse , trường cao đẳng đầu tiên của Cambridge, được thành lập vào năm 1284]] **Viện Đại học Cambridge** (tiếng Anh: _University of Cambridge_), còn gọi là **Đại học Cambridge**, là một viện đại học
**Học sâu** (tiếng Anh: **deep learning**, còn gọi là **học cấu trúc sâu**) là một phần trong một nhánh rộng hơn các phương pháp học máy dựa trên mạng thần kinh nhân tạo kết hợp
Một [[bản đồ não tướng học về bộ não người có từ năm 1894. Não tướng học là một trong những nỗ lực đầu tiên liên hệ những chức năng tinh thần với những phần
**Thuyết ưu sinh** là "khoa học ứng dụng hoặc là phong trào sinh học-xã hội ủng hộ việc sử dụng các phương thức nhằm cải thiện cấu tạo gen của dân số", thường là dân
nhỏ|Hình 1: Mô hình cơ bản của luận thuyết trung tâm. **Luận thuyết trung tâm** hay **học thuyết trung tâm, giáo lý trung tâm** (_central dogma_) là một học thuyết sinh học (chủ yếu trong
**Dịch hạch (plague)** là một loại bệnh do vi khuẩn _Yersinia pestis_ hình que thuộc họ Enterobacteriaceae gây ra. Từ nguyên của từ "plague" được cho là đến từ plāga Latin ("vết thương") và plangere
**Đạo** là một khái niệm cốt lõi trong tư tưởng triết học và tôn giáo Đông Á, là con đường tự nhiên của vũ trụ, là cơ chế vận hành và biến hóa của trời
"**Sinh nhật của Cheryl**" là một câu đố logic, cụ thể là một câu đố về kiến thức. Mục đích là xác định ngày sinh của cô gái tên Cheryl thông qua một số manh
nhỏ|Bìa quyển _Kimiya-yi sa'ādat_ (bản 1308) của nhà giả thuật Hồi giáo Ba Tư Al-Ghazali được trưng bày tại Bibliothèque nationale de France. **Lịch sử ngành hóa học** có lẽ được hình thành cách đây
nhỏ|390x390px|Học giả thời đại Phục Hưng Leonardo da Vinci là một trong những người tự học nổi tiếng nhất trong lịch sử nhỏ|390x390px|Khổng Phu Tử, triết gia, quê ở nước chư hầu Lỗ thời Đông
**Triết học châu Phi** là triết học được tạo ra bởi những người châu Phi, một loại triết học trình bày những quan điểm về thế giới quan của người Châu Phi, hay triết học
phải|nhỏ| Một [[Tập đoàn (sinh học)|tập đoàn sinh học của vi khuẩn _Escherichia coli_ được chụp hình phóng đại 10.000 lần.]] **Vi sinh vật** (, hay _microbe_) là một sinh vật có kích thước siêu
nhỏ|phải|Những con [[tê giác châu Phi, ngày nay, chúng là biểu tượng của sự nghiệp bảo tồn động vật, trong lịch sử chúng từng được xem như loài thần thú trị thủy]] nhỏ|phải|Họa phẩm về