✨Miklós Horthy

Miklós Horthy

Miklós Horthy de Nagybánya (tiếng Hungary: Vitéz Nagybányai Horthy Miklós; ; tiếng Anh: Nicholas Horthy; Tiếng Đức: Nikolaus Horthy Ritter von Nagybánya; 18 tháng 6 năm 1868 – 9 tháng 2 năm 1957) là một đô đốc và chính khách người Hungary, từng là nhiếp chính của Vương quốc Hungary giữa hai cuộc Chiến tranh thế giới và hầu hết Thế chiến II - từ ngày 1 tháng 3 năm 1920 đến ngày 15 tháng 10 năm 1944.

Horthy bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách là một trung úy trong Hải quân Áo-Hung vào năm 1896, và đạt cấp bậc chuẩn đô đốc vào năm 1918. Ông đã tham gia Trận chiến eo biển Otranto và trở thành tổng tư lệnh của Hải quân trong năm cuối cùng của Thế chiến thứ nhất; ông được thăng chức phó đô đốc và chỉ huy Hạm đội khi Hoàng đế-Vua Karl cách chức vị đô đốc trước đó khỏi chức vụ của ông ta sau những cuộc binh biến. Trong các cuộc cách mạng và can thiệp vào Hungary từ Tiệp Khắc, Romania và Nam Tư, Horthy trở về Budapest cùng với Quân đội hoàng gia Hungary; Nghị viện sau đó đã mời ông trở thành nhiếp chính của vương quốc. Trong suốt thời kỳ giữa hai cuộc chiến, Horthy đã lãnh đạo một chính quyền mang tính quốc gia bảo thủ và bài Do Thái. Hungary dưới thời Horthy đã cấm Đảng Cộng sản Hungary cũng như Đảng Arrow Cross, và theo đuổi chính sách đối ngoại phục hồi lãnh thỗ khi đối mặt với Hiệp ước Trianon năm 1920. Hoàng đế Karl I của Áo-Hung, cựu vương, đã hai lần cố gắng quay trở lại Hungary trước khi chính phủ Hungary nhượng bộ trước những lời đe dọa của Đồng minh về việc gia hạn chiến sự vào năm 1921. Karl sau đó bị áp giải ra khỏi Hungary để sống lưu vong.

Về mặt tư tưởng là một người bảo thủ quốc gia, Horthy đôi khi bị coi là phát xít. Vào cuối những năm 1930, chính sách đối ngoại của Horthy đã khiến ông liên minh với Đức Quốc xã để chống lại Liên Xô. Với sự hỗ trợ của Adolf Hitler, Hungary đã thành công trong việc mua lại một số khu vực đã nhượng lại cho các nước láng giềng theo Hiệp ước Trianon. Dưới sự lãnh đạo của Horthy, Hungary đã hỗ trợ những người tị nạn Ba Lan vào năm 1939 và tham gia vào cuộc xâm lược của phe Trục vào Liên Xô vào tháng 6 năm 1941. Một số nhà sử học coi Horthy là người không nhiệt tình đóng góp cho nỗ lực chiến tranh của Đức và Holocaust ở Hungary (vì sợ rằng nó có thể phá hoại các thỏa thuận hòa bình với các lực lượng Đồng minh), ngoài ra còn có một số nỗ lực thực hiện một thỏa thuận bí mật với Đồng minh trong Thế chiến II sau khi rõ ràng rằng phe Trục sẽ thua cuộc chiến, do đó cuối cùng dẫn đến việc quân Đức xâm lược và nắm quyền kiểm soát Hungary vào tháng 3 năm 1944 trong Chiến dịch Margarethe. Tuy nhiên, trước khi Đức quốc xã chiếm đóng Hungary, 63.000 người Do Thái đã bị giết. Cuối năm 1944, 437.000 người Do Thái bị trục xuất đến Auschwitz-Birkenau, nơi phần lớn bị ngạt khí khi đến nơi. Nhà sử học người Serbia Zvonimir Golubović đã tuyên bố rằng Horthy không chỉ biết về những vụ thảm sát diệt chủng này mà còn tán thành chúng, chẳng hạn như những vụ trong Đột kích Novi Sad.

Vào tháng 10 năm 1944, Horthy thông báo rằng Hungary đã tuyên bố đình chiến với Đồng minh và rút khỏi phe Trục. Ông buộc phải từ chức, bị quân Đức quản thúc và đưa đến Bayern. Khi chiến tranh kết thúc, ông bị quân đội Mỹ quản thúc. Sau khi cung cấp bằng chứng cho Phiên tòa xét xử tội ác chiến tranh của Phiên toà cấp Bộ năm 1948, Horthy định cư và sống những năm lưu vong còn lại ở Bồ Đào Nha. Hồi ký của ông, Ein Leben für Ungarn (Một cuộc sống cho Hungary), được xuất bản lần đầu năm 1953. Ông nổi tiếng là một nhân vật lịch sử gây tranh cãi ở Hungary đương đại.

Cuộc sống đầu đời và Sự nghiệp hải quân

thumb|left|Đô đốc Miklós Horthy trong Thế chiến I

thumb|Cha mẹ của Miklós Horthy: [[Paula Halassy và István Horthy]]

thumb|[[Magdolna Purgly, vợ của Đô đốc Miklós Horthy]]

Miklós Horthy de Nagybánya sinh ra tại Kenderes trong một gia đình quý tộc nhỏ không có tước hiệu, hậu duệ của István Horti, được Hoàng đế Ferdinand II phong tước vào năm 1635. Cha của ông, István Horthy de Nagybánya, là thành viên của Viện Magnates, thượng viện của Quốc hội Hungary, và là lãnh chúa của một điền trang rộng 610 ha (1.500 mẫu Anh). Ông kết hôn với nữ quý tộc người Hungary là Paula Halassy de Dévaványa năm 1857. Miklós là con thứ tư trong số tám người con của họ, được nuôi dạy theo đạo Tin lành.

Horthy vào Học viện Hải quân Hoàng gia và Hoàng gia Áo-Hung (k.u.k. Marine-Akademie) tại Fiume (nay là Rijeka, Croatia) ở tuổi 14. Bởi vì ngôn ngữ chính thức của học viện hải quân là tiếng Đức, Horthy nói tiếng Hungary với giọng Áo-Đức nhẹ, nhưng đáng chú ý, trong suốt quãng đời còn lại của mình. Ông cũng nói được tiếng Ý, tiếng Croatia, tiếng Anh và tiếng Pháp.

Vào đầu Thế chiến thứ nhất, Horthy là chỉ huy của thiết giáp hạm pre-dreadnought SMS Habsburg. Năm 1915, ông nổi tiếng về sự táo bạo khi chỉ huy tàu tuần dương hạng nhẹ mới SMS Novara. Ông đã lên kế hoạch cho cuộc tấn công vào Otranto Barrage năm 1917, dẫn đến Trận chiến eo biển Otranto, cuộc giao chiến hải quân lớn nhất trong cuộc chiến ở Biển Adriatic. Một hạm đội hợp nhất của Anh, Pháp và Ý đã gặp lực lượng Áo-Hung. Bất chấp ưu thế về quân số của hạm đội Đồng minh, lực lượng Áo đã giành chiến thắng sau trận chiến. Hạm đội Áo vẫn tương đối bình yên, tuy nhiên, Horthy bị thương. Sau cuộc binh biến Cattaro vào tháng 2 năm 1918, Hoàng đế Karl I của Áo đã chọn Horthy thay vì nhiều chỉ huy cấp cao khác làm Tổng tư lệnh mới của Hạm đội Đế quốc vào tháng 3 năm 1918. Vào tháng 6, Horthy lên kế hoạch cho một cuộc tấn công khác vào Otranto, và trong một cuộc khởi hành từ chiến lược thận trọng của những người tiền nhiệm, ông đã giao nhiệm vụ cho các thiết giáp hạm của đế chế. Khi đang chèo thuyền trong đêm, chiếc dreadnought 'SMS Szent István'' đã gặp các tàu phóng lôi MAS của Ý và bị đánh chìm, khiến Horthy phải hủy bỏ nhiệm vụ. Ông đã cố gắng bảo toàn phần còn lại của hạm đội đế chế cho đến khi được Hoàng đế Karl ra lệnh giao nộp nó cho Nhà nước mới Nhà nước Slovene, Croat và Serb (tiền thân của Nam Tư) vào ngày 31 tháng 10.

Tư lệnh quân đội quốc gia

thumb|Horthy tiến vào Budapest, ngày 16 tháng 11 năm 1919 (đoạn phim 1080p)

Hai chấn thương sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đã định hình sâu sắc nên tinh thần và tương lai của quốc gia Hungary. Đầu tiên là sự mất mát, theo quy định của quân Đồng minh trong Thế chiến thứ nhất, phần lớn lãnh thổ Hungary giáp với các quốc gia khác. Đây là những vùng đất từng thuộc về Hungary (sau đó là một phần của Đế quốc Áo-Hung) nhưng hiện được nhượng chủ yếu cho Tiệp Khắc, Vương quốc România, Đệ Nhất Cộng hòa Áo và Vương quốc Nam Tư. Việc cắt bỏ, cuối cùng được phê chuẩn trong Hiệp ước Trianon năm 1920, khiến Hungary mất 2/3 lãnh thổ và 1/3 số người nói tiếng Hungary bản địa; điều này đã giáng cho dân chúng một đòn tâm lý khủng khiếp. Chấn thương thứ hai bắt đầu vào tháng 3 năm 1919, khi nhà lãnh đạo Cộng sản Béla Kun lên nắm quyền ở thủ đô Budapest, sau khi chính phủ dân chủ đầu tiên ở Hungary thất bại.

thumb|Với [[Hiệp ước Trianon, Vương quốc Hungary mất 72% lãnh thổ (bao gồm Croatia) và 3,3 triệu người nói tiếng Hungary bản địa.]]

Kun và những người trung thành của ông tuyên bố thành lập Cộng hòa Xô viết Hungary và hứa khôi phục lại sự vĩ đại trước đây của Hungary. Thay vào đó, những nỗ lực tái chinh phục của ông đã thất bại, và người Hungary bị đối xử với sự đàn áp kiểu Xô Viết dưới hình thức các băng nhóm vũ trang đe dọa hoặc sát hại kẻ thù của chế độ. Giai đoạn bạo lực này được gọi là Khủng bố Đỏ.

Trong vòng vài tuần sau cuộc đảo chính, sự nổi tiếng của Kun giảm mạnh. Vào ngày 30 tháng 5 năm 1919, các chính trị gia chống cộng đã thành lập một chính phủ phản cách mạng ở thành phố Szeged phía Nam, lúc đó đang bị quân Pháp chiếm đóng. Ở đó, Gyula Károlyi, thủ tướng của chính phủ phản cách mạng, đã đề nghị cựu Đô đốc Horthy, vẫn được coi là một anh hùng chiến tranh, làm Bộ trưởng Bộ Chiến tranh trong chính phủ mới và nắm quyền chỉ huy một lực lượng phản cách mạng sẽ được đặt tên là Quân đội Quốc gia (tiếng Hungary: Nemzeti Hadsereg). Horthy đồng ý và ông ấy đến Szeged vào ngày 6 tháng 6. Ngay sau đó, theo lệnh của các cường quốc Đồng minh, một nội các đã được cải tổ và Horthy không được ngồi vào đó. Không nản lòng, Horthy đã cố gắng giữ quyền kiểm soát Quân đội Quốc gia bằng cách tách bộ chỉ huy quân đội khỏi Bộ Chiến tranh.

Thế chiến II và Holocaust

Lưu vong

Di sản

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Miklós Horthy de Nagybánya** (tiếng Hungary: Vitéz _Nagybányai Horthy Miklós_; ; tiếng Anh: _Nicholas Horthy_; Tiếng Đức: _Nikolaus Horthy Ritter von Nagybánya_; 18 tháng 6 năm 1868 – 9 tháng 2 năm 1957) là một
**Chiến dịch tấn công Bucharest-Arad** (30 tháng 8 - 3 tháng 10 năm 1944), còn gọi là **Chiến dịch Rumani**, là một chiến dịch quân sự do Hồng quân Liên Xô và quân đội Rumani
**Chiến dịch Debrecen** (6 tháng 10 - 28 tháng 10 năm 1944) là một chiến dịch tấn công do Hồng quân Liên Xô và quân đội România tổ chức nhằm tấn công quân đội Đức
**Raoul Wallenberg** (4.8.1912 – 17.7.1947) là doanh nhân, nhà ngoại giao và người theo chủ nghĩa nhân đạo người Thụy Điển. Ông rất nổi tiếng về những nỗ lực thành công để cứu hàng ngàn
**Trận chiến Eo biển Otranto** là một nỗ lực của Hải quân Đế quốc Áo-Hung trong việc phá vỡ Rào chắn Otranto của hải quân phe Hiệp ước tại eo biển Otranto trong hai ngày
**Vương quốc Hungary** (tiếng Hungary: Magyar Királyság), đôi khi được gọi là **"thời đại nhiếp chính"** hay **thời đại Horthy**, tồn tại như một quốc gia từ năm 1920 đến năm 1946 dưới sự cai
**Hungary** () là một quốc gia không giáp biển thuộc khu vực Trung Âu. Có diện tích thuộc lưu vực Carpathian, nước này giáp với Slovakia về phía bắc, Ukraine về phía đông bắc, Romania
**Hungary** là một quốc gia ở Trung Âu. Lịch sử của nó theo tên này từ thời đầu Trung cổ, khi các lưu vực sông Pannonian bị những người Magyar chinh phục. Các vương quốc
**Cầu Petőfi** (tiếng Hungary: _Petőfi híd,_ tên gọi trong giai đoạn 1937 - 1945: **Cầu Horthy Miklós** _(Horthy Miklós híd)_) là một trong những cây cầu lịch sử ở Budapest, Hungary. Cây cầu này bắc
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" ## Phân loại Phục bích có nhiều dạng, đại để như sau: #Trường
**Adrian Freiherr von Fölkersam** (tên , _Adrian Arminovich Fyolkerzam_; 20 tháng 12 năm 1914 - 21 tháng 1 năm 1945) là một sĩ quan Brandenburger và Waffen-SS của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ
**Otto Skorzeny** (12 tháng 6 năm 1908 tại Viên – 6 tháng 7 năm 1975 tại Madrid) là một trung tá (tiếng Đức: _Obersturmbannführer_) của Lực lượng Vũ trang SS trong suốt giai đoạn Chiến
**Rudolf "Rudi" Vrba** (tên khai sinh Walter Rosenberg; 11/09/1924 - 27/03/2006) là một nhà hóa sinh người Slovakia gốc Do Thái. Khi còn là thiếu niên vào năm 1942, ông bị trục xuất đến trại
nhỏ|239x239px|Hướng nhìn chính diện **Cung điện Hoàng gia Gödöllő** là một trong những di tích quan trọng nhất, lớn nhất của kiến ​​trúc cung điện Hungary. Người xây dựng nó, Bá tước Antal Grassalkovich I
nhỏ|235x235px|[[Vương miện Thần thánh Hungary|Vương miện Hungary]] **Vua của Hungary** () là người đứng đầu của Vương quốc Hungary từ năm 1000 (hoặc 1001) đến năm 1918, có tước hiệu là "**Vua Tông đồ Hungary**"
phải|nhỏ|270x270px|Đài tưởng niệm Kossuth gần [[Toà nhà Nghị viện Hungary|Tòa nhà Quốc hội Hungary]] **Đài tưởng niệm Kossuth** là một trong ba đài tưởng niệm công cộng dành riêng cho cựu Nhiếp chính-Tổng thống Hungary
nhỏ|Ảnh chụp Hội đồng thẩm phán từ trên cao, năm 1945 **Phiên tòa Nürnberg** () là các phiên xét xử quân sự quân Đồng Minh mở ở Nürnberg, Đức theo luật quốc tế và luật
**Chiến dịch tấn công chiến lược Iaşi–Chişinău** hay **Chiến dịch tấn công chiến lược Jassy-Kishinev** (,, gọi tắt là **Chiến dịch Iaşi-Chişinău** hay **Chiến dịch Jassy-Kishinev** là một chiến dịch tấn công chiến lược của
**Cộng hòa Nhân dân Hungary** () là quốc hiệu chính thức của nước Hungary xã hội chủ nghĩa từ năm 1949 đến năm 1989, do Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa Hungary lãnh đạo
phải|nhỏ|300x300px|[[Johann Wilhelm Baur (Họa sĩ từ Strasbourg, 1610–40), _người Ba Lan và người Hungary_, Bảo tàng Czartoryski, Kraków]] phải|nhỏ|300x300px|[[Joris Hoefnagel|Georg Haufnagel, _người kỵ binh Ba Lan và cô gái Hungary_ (thế kỷ 17), Bảo tàng
**Béla Guttmann** (; sinh ngày 27 tháng 1 năm 1899 – mất ngày 28 tháng 8 năm 1981) là một cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá người Hungary. Ông sinh ra tại Budapest,
**Chiếm đóng quân sự bởi Liên Xô** viết về các vụ chiếm đóng bằng vũ lực của Liên Xô từ lúc mở màn cho tới sau thế chiến thứ hai và sau đó trong thời
**Huân chương voi Trắng** (; ) là một tước hiệu của Thái Lan, được thành lập vào năm 1858 bởi Rama IV. sự phục vụ lâu dài và/hoặc đặc biệt xứng đáng trong lĩnh vực
**Chiến dịch Budapest** (Tiếng Nga:_Будапештская операция_) là trận đánh lớn nhất giữa quân đội Liên Xô với quân đội Đức Quốc xã và quân đội Hungary tại _Mặt trận Hungary_ thuộc Chiến tranh Xô-Đức trong