✨Lục Vân Tiên - P1
I.VÂN TIÊN TẠ THẦY XIN VỀ ĐI THI
Trước đèn xem truyện Tây minh Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le. Hỡi ai lẳng lặng mà nghe, Mà răn việc trước, lánh dè thân sau. Trai thời trung hiếu làm đầu, Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.
Có người ở quận Đông Thành, Tu nhân tích đức sớm sinh con hiền. Đặt tên là Lục Vân Tiên, Tuổi vừa hai tám nghề chuyên học hành. Theo thầy nấu sử xôi kinh, Tháng ngày bao quản sân Trình lao đao. Văn đà khởi phung đằng giao, Võ thêm ba lược sáu thao ai bì.
Xảy nghe mở hội khoa thi, Vân Tiên vào tạ tôn sư xin về: "Bấy lâu cửa thánh dựa kề, Đã tươi khí tượng lại xuê tinh thần.
Nay đà gặp hội phong vân, Ai ai mà chẳng lập thân buổi này. Chí lăm bắn nhạn ven mây Danh tôi đặng rạng tiếng thầy bay xa. Làm trai trong cõi người ta, Trước lo báo bổ sau là hiển vang". Tôn sư bàn luận tai nàn, "Gẫm trong số hệ khoa tràng còn xa. Máy trời chẳng dám nói ra, Xui thầy thương tớ xót xa trong lòng. Sau dầu tỏ nỗi đục trong. Phải toan một phép để phòng hộ thân. Rày con xuống chốn phong trần, Thầy cho hai đạo phù thần đem theo. Chẳng may mà gặp lúc nghèo, Xuống sông cũng vững lên đèo cũng an". Tôn sư trở lại hậu đàng, Vân Tiên ngơ ngẩn lòng càng sanh nghi: "Chẳng hay mình mắc việc chi, Tôn sư người dạy khoa kỳ còn xa? Hay là bối rối việc nhà? Hay là đức bạc hay là tài sơ? Bấy lâu lòng những ước mơ Hội này chẳng gặp còn chờ hội nao? Nên hư chẳng biết làm sao, Chi bằng hỏi lại lẽ nào cho minh. Đặng cho rõ nỗi sự tình, Ngỏ sau ngàn dặm đăng trình mới an". Tôn sư ngồi hãy thở than, Ngó ra trước án thấy chàng trở vô. Hỏi rằng : "Vạn lý trường đồ, Sao chưa cất gánh trở vô việc gì? Hay là con hãy hồ nghi, Thầy bàn một việc khoa kỳ ban trưa?" Vân Tiên nghe nói liền thưa: "Tiểu sinh chưa biết nắng mưa buổi nào? Song đường tuổi hạc đã cao, Xin thầy nói lại âm hao con tường". Tôn sư nghe nói thêm thương, Dắt tay ra chốn tiền đường xem trăng. Nhân cơ tàng sự dặn rằng: "Việc người chẳng khác việc trăng trên trời. Tuy là soi khắp mọi nơi, Khi mờ, khi tỏ, khi vơi, khi đầy. Sau con chẳng rõ lẽ này, Lựa là con phải hỏi thầy làm chi? Số con hai chữ khoa kỳ, Khôi tinh đã rạng, Tử vi thêm loà. Hềm vì ngựa chạy đường xa, Thỏ vừa ló bóng gà đà gày tan. Bao giờ cho tới bắc phang, Gặp chuột ra đàng con mới nên danh. Sau dầu đặng chữ hiển vinh, Mấy lời thầy nói tiền trình chẳng sai. Trong cơ bỉ cực thới lai, Giữ mình cho vẹn việc ai chớ sờn". Vân Tiên vội vã tạ ơn, Trăm năm dốc giữ keo sơn mọi lời.
II. VÂN TIÊN LÊN ĐƯỜNG GẶP LŨ SƠN ĐÀI Ra đi vừa rạng chân trời, Ngùi ngùi ngó lại nhớ nơi học đường. Tiên rằng: "Thiên các nhất phương, Thầy đeo đoạn thảm, tơ vương mối sầu. Quản bao thân trẻ dãi dầu, Mang đai Tử Lộ, quảy bầu Nhan Uyên. Bao giờ cá nước gặp duyên, Đặng cho con thảo phỉ nguyền tôi ngay". Kể từ lướt dặm tới nay, Mỏi mê hầu đã mấy ngày xông sương. Đoái nhìn phong cảnh thêm thương, Vơi vơi dặm cũ nẻo đường còn xa. Chi bằng kiếm chốn lân gia, Trước là tìm bạn, sau là nghỉ chân. Việc chi than khóc tưng bừng, Đều đem nhau chạy vào rừng lên non. Tiên rằng: "Bớ chú cõng con! Việc chi nên nỗi bon bon chạy hoài?" Dân rằng: "Tiểu tử là ai? Hay là một đảng sơn đài theo tao?" Tiên rằng: "Cớ sự làm sao, Xin ngừng vài bước sẽ trao một lời". Dân nghe tiếng nói khoan thai, Kêu nhau đứng lại bày lời phân qua: "Nhân rày có đảng lâu la, Tên rằng Đỗ Dự hiệu là Phong Lai. Nhóm nhau ở chốn sơn đài, Người đều sợ nó có tài khôn đương. Bây giờ xuống cướp thôn hương. Thấy con gái tốt qua đường bắt đi. Xóm làng chẳng dám nói chi, Cám thương hai gã nữ nhi mắc nàn! Con ai vóc ngọc mình vàng, Má đào mày liễu dung nhan lạnh lùng. E khi mắc đảng hành hung, Uổng trang thục nữ sánh cùng thất phu. Thôi thôi chẳng dám nói lâu, Chạy đi cho khỏi kẻo âu tới mình". Vân Tiên nổi giận lôi đình, Hỏi thăm: "Lũ nó còn đình nơi nao? Tôi xin ra sức anh hào, Cứu người cho khỏi lao đao buổi này".
Dân rằng: "Lũ nó còn đây, Qua xem tướng bậu thơ ngây đã đành. E khi hoạ hổ bất thành Khi không mình lại xô mình vào hang". Vân Tiên ghé lại bên đàng, Bẻ cây làm gậy tìm đàng chạy vô. Kêu rằng: "Bớ đảng hung đồ, Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân". Phong Lai mặt đỏ phừng phừng: "Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây? Trước gây việc dữ tại mầy. Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng". Vân Tiên tả đụt hữu xông, Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang. Lâu la bốn phía vỡ tan, Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay. Phong Lai trở chẳng lập tay, Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
III. VÂN TIÊN CỨU KIỀU NGUYỆT NGA
Dẹp rồi lũ kiến chòm ong, Hỏi: "Ai than thóc ở trong xe này?" Thưa rằng: "Tôi thiệt người ngay, Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ. Trong xe chật hẹp khôn phô, Cúi đầu trăm lạy cứu cô tôi cùng". Vân Tiên nghe nói động lòng, Đáp rằng: "Ta đã trừ dòng lâu la.
Khoan khoan ngồi đó chớ ra, Nàng là phận gái, ta là phận trai. Tiểu thư con gái nhà ai, Đi đâu nên nỗi mang tai bất kỳ. Chẳng hay tên họ là chi? Khuê môn phận gái việc gì đến đây? Trước sau chưa hãn dạ nầy, Hai nàng ai tớ, ai thầy nói ra?" Thưa rằng: "Tôi Kiều Nguyệt Nga, Con này tỉ tất tên là Kim Liên. Quê nhà ở quận Tây Xuyên, Cha làm Tri phủ ở miền Hà Khê. Sai quân đem bức thư về, Rước tôi qua đó định bề nghi gia. Làm con đâu dám cãi cha, Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành. Chẳng qua là sự bất bình, Hay vầy cũng chẳng đăng trình làm chi. Lâm nguy chẳng gặp giải nguy, Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi. Trước xe quân tử tạm ngồi, Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa: Chút tôi liễu yếu đào thơ, Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần. Hà Khê qua đó cũng gần, Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng. Gặp đây đương lúc giữa đàng, Của tiền không có, bạc vàng cũng không. Gẫm câu báo đức thù công, Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi". Vân Tiên nghe nói liền cười: "Làm ơn há dễ trông người trả ơn. Nay đà rõ đặng nguồn cơn, Nào ai tính thiệt so hơn làm gì? Nhớ câu kiến ngãi bất vi, Làm người thế ấy cũng phi anh hùng. Đó mà biết chữ thỉ chung, Lựa là đây phải theo cùng làm chi". Nguyệt Nga biết ý chẳng đi, Hỏi qua tên họ một khi cho tường. Thưa rằng: "Tiện thiếp đi đường, Chẳng hay quân tử quê hương nơi nào?" Phút nghe lời nói thanh thao, Vân Tiên há nỡ lòng nào phôi pha: "Đông Thành vốn thiệt quê ta, Họ là Lục thị tên là Vân Tiên". Nguyệt Nga vốn đấng thiền quyên, Tai nghe lời nói tay liền rút trâm. Thưa rằng: "Nay gặp tri âm, Xin đưa một vật để cầm làm tin". Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn, Nguyệt Nga liếc thấy càng thìn nết na: "Vật chi một chút gọi là, Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ. Của nầy là của vất vơ, Lòng chê cũng phải mặt ngơ sao đành". Vân Tiên khó nổi làm thinh, Chữ ơn buộc lại chữ tình lây dây. Than rằng: "Đó khéo trêu đây, Ơn kia đã mấy của nầy rất sang. Đương khi gặp gở giửa đàng, Một lời cũng nhớ, ngàn vàng chẳng phai. Nhớ câu trọng ngãi khinh tài, Nào ai chịu lấy của ai làm gì". Thưa rằng: "Chút phận nữ nhi, Vốn chưa biết lẽ có khi mích lòng. Ai dè những đấng anh hùng, Thấy trâm thôi lại thẹn thùng cùng trâm". Riêng than: "Trâm hỡi là trâm! Vô duyên chi bấy ai cầm mà mơ? Đưa trâm chàng đã làm ngơ, Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ". Vân Tiên ngó lại rằng? "Ừ, Làm thơ cho kịp bấy chừ chớ lâu". Nguyệt Nga ứng tiếng xin hầu Xuống tay liền tả tám câu năm vần. "Thơ rồi nầy thiếp xin dâng, Ngửa trông lượng rộng văn nhân thế nào?"
Vân Tiên xem thấy ngạt ngào Ai dè sức gái tài cao bực nầy. Đã mau mà lại thêm hay, Chẳng phen Tạ nữ cũng tày Từ phi. Thơ ngâm dũ xuất dũ kỳ, Cho hay tài gái kém gì tài trai. Như vầy ai lại thua ai, Vân Tiên hoạ lại một bài trao ra. Xem thơ biết ý gần xa, Mai hoà vận điểu, điểu hoà vận mai. Có câu xúc cảnh hứng hoài, Đường xa vọi vọi, dặm dài vơi vơi. Ai ai cũng ở trong trời, Gặp nhau ta đã cạn lời thời thôi.
IV. NGUYỆT NGA VỀ HÀ KHÊ Vân Tiên từ giã phản hồi Nguyệt Nga than thở: "Tình ôi là tình! Nghĩ mình mà ngán cho mình, Nỗi ơn chưa trả nỗi tình lại vương. Hữu tình hai chữ uyên ương. Chuỗi sầu ai khéo vấn vương vào lòng. Nguyện cùng Nguyệt lão hỡi ông! Trăm năm cho vẹn chữ tòng mới an. Hữu tình chi bấy Ngưu lang, Tấm lòng Chức Nữ vì chàng mà nghiêng. Thôi thôi, em hỡi Kim Liên! Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê". Trải quả dấu thỏ đàng dê, Chim kêu vượn hú tư bề nước non. Vái trời cho đặng vuông tròn, Trăm năm cho trọn lòng son với chàng. Phút đâu đã tới phủ đàng, Kiều công xem thấy lòng càng sanh nghi. Hỏi rằng: "Nào trẻ tuỳ nhi, Cớ sao nên nỗi con đi một mình". Nguyệt Nga thưa việc tiền trình, Kiều công tưởng nỗi sự tình chẳng vui. Nguyệt Nga dạ hãy ngùi ngùi, Nghĩ mình thôi lại sụt sùi đòi cơn: "Lao đao phận trẻ chi sờn, No nao trả đặng công ơn cho chàng". Kiều công nghe nói liền can, Dạy rằng: "Con hãy nghĩ an mình vàng. Khi nào cha rảnh việc quan, Cho quân qua đó mời chàng đến đây. Sao sao chẳng kịp thời chầy, Cha nguyền trả đặng ơn nầy thời thôi. Hậu đường con hãy tạm lui, Làm khuây dạ trẻ cho vui lòng già". Tây lầu trống điểm sang ba, Nguyệt Nga còn hãy xót xa phận mình. Dời chân ra chốn hoa đình, Xem trăng rồi lại chạnh tình cố nhân. Than rằng: "Lưu thuỷ cao sơn, Ngày nào nghe đặng tiếng đàn tri âm. Chữ tình càng tưởng càng thâm, Muốn pha khó lợt, muốn dầm khôn phai. Vơi vơi đất rộng trời dài, Hỡi ai nỡ để cho ai đeo phiền". Trở vào bèn lấy bút nghiên, Đặt bàn hương án chúc nguyền thần linh. Làu làu một tấm lòng thành, Hoạ ra một bức tượng hình Vân Tiên. Than rằng: "Ngàn dặm sơn xuyên, Chữ ơn để dạ, chữ duyên nhuốm sầu".
V. VÂN TIÊN ĐI THI
Chuyện nàng sau hãy còn lâu, Chuyện chàng xin nối thứ đầu chép ra. Vân Tiên từ cách Nguyệt Nga, Giữa đường lại gặp người ra kinh kỳ.
Xa xem mặt mũi đen sì, Mình cao sồ sộ dị kỳ rất hung. Nhớ câu bình thuỷ tương phùng, Anh hùng lại gặp anh hùng một khi: Chẳng hay danh tánh là chi, Một mình mang gói ra đi việc gì? Đáp rằng: "Ta cũng xuống thi, Hớn Minh tánh tự Ô Mi quê nhà Vân Tiên biết kẻ chính tà, Hễ người dị tướng ắt là tài cao. Chữ rằng bằng hữu chi giao. Tình kia đã gặp lẽ nào làm khuây? Nên rừng há dễ một cây, Muốn cho có đó cùng đây luôn dần. Kìa nơi võ miếu hầu gần, Hai ta vào đó nghỉ chân một hồi. Cùng nhau bày tỏ tên rồi, Hai chàng từ tạ đều lui ra đường.
VI. VÂN TIÊN ĐỂ HỚN MINH ĐI TRƯỚC MÌNH VỀ THĂM NHÀ ĐÃ Hớn Minh đi trước tựu trường, Vân Tiên còn hãy hồi hương viếng nhà. Mừng rằng: "Nay thấy con ta, Cha già hằng tưởng, mẹ già luống trông. Bấy lâu đèn sách gia công, Con đà nên chữ tang bồng cùng chăng?" Vân Tiên quì lạy thưa rằng: Chẳng hơn người cổ cũng bằng người kim. “Dám xin cha mẹ an tâm, Cho con trả nợ thanh khâm cho rồi" Mẹ cha thấy nói thêm vui, Lại lo non nước xa xôi ngàn trùng. Cho theo một đứa tiểu đồng, Thư phong một bức dặn cùng Vân Tiên: "Xưa đà định chữ lương duyên, Cùng quan hưu trí ở miền Hàn Giang, Con người là Võ Thể Loan. Tuổi vừa hai bảy dung nhan mặn mà. Chữ rằng: Hồ Việt nhất gia, Con đi tới đó trao qua thư nầy. Con dầu bước đặng thang mây, Dưới chân đã sẵn một dây tơ hồng".
VII. VÂN TIÊN RA ĐI THI – GHÉ NHÀ VÕ CÔNG GẶP BẠN Song thân dạy bảo vừa xong, Vân Tiên cùng gã tiểu đồng dời chân. Ra đi tách dặm băng chừng, Gió nam rày đã đưa xuân qua hè. Lại xem dặm liễu đường hoè, Tin ong ngơ ngáo, tiếng ve vang dầy. Vui xem nước nọ non nầy, Nước xao sóng dợn, non vầy đá cao.
Màn trời gấm trải biết bao, Trên nhành chim nói, dưới ao cá cười. Quận thành nhắm kiểng coi người, Kiểng xinh như vẽ, người tươi như dồi. Hàn Giang phút đã tới nơi, Vân Tiên ra mắt một hồi trình thư. Võ công lấy đọc bấy giờ, Mừng duyên cầm sắt mối tơ đặng liền. Liếc coi tướng mạo Vân Tiên, Khá khen họ Lục phước hiền sinh con. Mày tằm mắt phụng môi son, Mười phân cốt cách vuông tròn mười phân. Những e kẻ Tấn người Tần, Nào hay chữ ngẫu đặng gần chữ giai. Xem đà đẹp đẽ hoà hai, Nầy dâu Nam giản nọ trai Đông sàng Công rằng: "Ngãi tế mới sang, Muốn lo việc nước hãy toan việc nhà". Tiên rằng: "Nhờ lượng nhạc gia, Đại khoa dầu đặng, tiểu khoa lo gì". Công rằng: "Con dốc xuống thi, Sao không kết bạn mà đi tựu trường? Gần đây có một họ Vương, Tên là Trử Trực văn chương tót vời. Cha đà sai trẻ qua mời, Đặng con cùng gã thử chơi một bài. Thấp cao, cao thấp, biết tài, Vầy sau bạn trước cùng mai mới mầu". Xảy đâu Tử Trực tới hầu, Võ công sẵn đặt một bầu rượu ngon. Công rằng: "Nầy bớ hai con! Thơ hay làm đặng rượu ngon thưởng liền. Muốn cho Trực sánh cùng Tiên, Lấy câu “bình thuỷ hữu duyên” làm đề". Song song hai gã giao kề, Lục, Vương, hai họ đua nghề một khi Cho hay kỳ lại gặp kỳ, Bạch Hàm há dễ kém chi Như Hoành. Công rằng : "Đơn quế đôi nhành, Bảng vàng thẻ bạc đã đành làm nên. Như chuông chẳng đánh chẳng kêu, Ngọn đèn tỏ rõ trước khêu bởi mình. Thiệt trang lương đống đã đành, Khá khen hai họ tài lành hoà hai". Trực rằng: "Tiên vốn cao tài, Có đâu én hộc sánh vai một bầy. Tình cờ mà gặp nhau đây, Trực rằng xin nhượng Tiên rày làm anh. Nay đà nên nghĩa đệ huynh, Xin về mai sẽ thượng trình cùng nhau". Phút xem trăng đã đứng đầu, Vân Tiên vào chốn thư lầu nghỉ an. Võ công trở lại hậu đàng, Đêm khuya dạy dỗ Thể Loan mọi lời: "Ngày mai vừa rạng chân trời, Tiểu nhi trang điểm ra nơi lê đình. Gọi là chút nghĩa tống tình. Phòng sau cho khỏi bất bình cùng nhau". Bóng trăng vừa lộ nhành dâu, Vân Tiên vào tạ giây lâu xuất hành. Ra đi vừa thuở bình minh, Thể Loan đứng trước lê đình liễm dung. Thưa rằng: "Quân tử phó công, Xin thương bồ liễu chữ tòng ngây thơ. Tấm lòng thương gió nhớ mưa, Đường xa ngàn dặm xin đưa một lời. Ngày nay thánh chúa trị đời, Nguyền cho linh phụng gặp nơi ngô đồng. Quản bao chút phận má hồng. Phòng khuya vò võ, đợi trông khôn lường. Chàng dầu cung quế xuyên dương, Thiếp xin hai chữ tao khương cho bằng. Xin đừng tham đó bỏ đăng, Chơi lê quên lựu, chơi trăng quên đèn". Tiên rằng : "Như lửa mới nhen, Dễ trong một bếp mà chen mấy lò. May duyên rủi nợ dễ phô, Chớ nghi Ngô Khởi hãy lo Mãi Thần". Thể Loan vội vã lui chân, Vân Tiên từ biệt trông chừng Trường An.
VIII. VÂN TIÊN TỪ BIỆT VÕ CÔNG, THỂ LOAN, LÊN ĐƯỜNG RA KINH THI, GẶP VƯƠNG TỬ TRỰC, TRỊNH HÂM, BÙI KIỆM
Xa xa vừa mấy dặm đường, Gặp Vương Tử Trực vầy đoàn đều đi. Trả qua thuỷ tú sơn kỳ, Phỉ lòng cá nhảy gặp thì rồng bay. Người hay lại gặp kiểng hay, Khác nào Tiên tử chơi rày Bồng Lai. Cùng nhau tả chút tình hoài, Năm ba chén rượu một vài câu thơ. Công danh ai chẳng ước mơ, Ba tầng cửa võ một giờ nhảy qua. Cùng nhau bàn bạc gần xa Chữ tài chữ mệnh xưa hoà ghét nhau. Trực rằng: "Rồng xuống vực sâu, Mặc dầu giỡn sóng mặc dầu chơi mây". Tiên rằng: "Hồng hộc đều bay, E khi mỏi cánh lạc bầy về sau"
Mảng còn trò chuyện với nhau, Trông chừng kinh địa đã hầu tới nơi. Chênh vênh vừa xế mặt trời, Hai người tìm quán nghỉ ngơi đợi kỳ.
Phút đầu gặp bạn đi thi, Đều bày tên họ một khi mới tường. Một người ở quận Phan Dương, Tên Hâm họ Trịnh tầm thường nghề văn. Một người ở quận Dương Xuân, Họ Bùi tên Kiệm tác chừng đôi mươi. Hai người lại gặp hai người, Đều vào một quán vui cười ngả nghiêng. Kiệm rằng: "Nghe tiếng anh Tiên, Nay đà thấy mặt phỉ nguyền ước ao". Hâm rằng: "Chưa biết thấp cao, Làm thơ mới biết bậc nào tài năng:". Bèn kêu ông quán nói rằng: "Khá toan sắm sửa đồ ăn cho bề". Quán rằng: "Thịt cá ê hề, Khô lân chả phụng bộn bề thiếu đâu. Kìa là thuốc lá ướp ngâu, Trà ve tuyết điểm rượu bầu cúc hương. Để khi đãi khách giàu sang, Đãi người văn vật, đãi trang anh hùng".
Bĩ bàng trà rượu đã xong, Bốn người ngồi lại một vòng làm thơ. Kiệm, Hâm còn hãy ngẩn ngơ, Phút thơ Tiên, Trực, một giờ vừa xong. Kiệm, Hâm xem thấy lạ lùng, Gẫm nghi Tiên, Trực viết tùng cổ thi. Chẳng hay ông quán cười chi, Vỗ tay xuống chiếu một khi cười dài. Tiên rằng: "Ông quán cười ai?" Quán rằng: "Cười kẻ bất tài đồ thơ, Cười ngươi Tôn Tẩn không lừa, Trước đà thẫy máy chẳng ngừa Bàng Quyên". Trực rằng : "Lời nói hữu duyên, Thế trong kinh sử có tuyền cùng chăng?" Quán rằng: "Kinh sử đã từng, Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa. Hỏi thời ta phải nói ra, Vì chưng hay ghét cũng là hay thương" Tiên rằng: "Trong đục chưa tường, Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào?" Quán rằng: "Ghét việc tầm phào, Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tới tâm. Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm, Để dân đến đỗi sa hầm sẩy hang. Ghét đời U, Lệ đa đoan, Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần. Ghét đời Ngũ bá phân vân, Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn. Ghét đời Thúc quí phân băng, Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân. Thương là thương đức Thánh nhân, Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc Khuôn. Thương thầy Nhan Tử dở dang. Ba mươi mốt tuổi, tách đàng công danh. Thương ông Gia Cát tài lành, Gặp cơn Hán mạt đã đành phôi pha. Thương thầy Đổng tử cao xa, Chí thời có chí ngôi mà không ngôi. Thương ngươi Nguyên Lượng ngùi ngùi, Lỡ bề giúp nước lại lui về cày. Thương ông Hàn Dũ chẳng may, Sớm dâng lời biểu tối đày đi xa. Thương thầy Liêm Lạc đã ra, Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân. Xem qua kinh sử mấy lần, Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương". Trực rằng: "Chùa rách Phật vàng, Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân. Thương dân sao chẳng lập thân, Để khi nắng hạ toan phần làm mưa?" Quán rằng: "Nghiêu, Thuấn thuở xưa, Khó ngăn Sào Phủ, khôn ngừa Hứa Do. Di, Tề chẳng khứng giúp Châu, Một mình một núi, ai hầu chi ai. Ông Y ông Phó ôm tài, Kẻ cày, người cuốc đoái hoài chi đâu? Thái Công xưa một cần câu, Sớm mai sông Vị mặc dầu vui chơi. Nghiêm Lăng đã mấy đua bơi, Cày mây cần nguyệt tả tơi áo cầu. Trần Đoàn chẳng chút lo âu, Gió trăng một túi công hầu chiêm bao, Người nay có khác xưa nào? Muốn ra ai cấm muốn vào ai ngăn". Kiệm rằng: "Lão quán nói nhăng, Dẫu cho trải việc cũng thằng bán cơm. Gối rơm theo phận gối rơm, Có đâu ở thấp mà chồm lên cao". Quán rằng: "Sấm chớp mưa dào, Ếch nằm đáy giếng thấy bao lăm trời. Sông trong cá lội thảnh thơi, Xem hai con mắt sáng ngời như châu. Uổng thay đàn gảy tai trân, Nước xao đầu vịt nghĩ lâu nực cười". Tiên rằng: "Ông quán chớ cười, Đây đà nhớ đặng bảy người Trước Lâm. Cùng nhau kết bạn đồng tâm, Khi cờ, khi rượu, khi cầm, khi thi. Công danh phú quí màng chi, Cho bằng thong thả mặc khi vui lòng. Rừng nhu biển thánh mênh mông, Dễ ai lặn lội cho cùng vậy vay". Quán rằng: "Đó biết lòng đây, Lời kia đã cạn rượu nầy thưởng cho". Kiệm, Hâm là đứa so đo, Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng. Khoa nầy Tiên ắt đầu công, Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi. Mảng còn nghĩ việc tới lui, Xảy nghe trống đã giục thôi vào trường. Kẻ thùng người thấp đầy đường, Lao xao đoàn bảy, chàng ràng lũ ba. Vân Tiên vừa bước chân ra, Bỗng đâu xảy gặp tin nhà đưa thư.
IX. VÂN TIÊN ĐƯỢC TIN MẸ CHẾT QUÀY QUÃ TRỞ VỀ Khai phong mới tỏ sự cơ, Mình gieo xuống đất dật dờ hồn hoa. Hai hàng luỵ ngọc nhỏ sa, Trời Nam đất Bắc xót xa đoạn tràng. Anh em ai nấy đều thương, Trời ơi! há nỡ lấp đường công danh. Những lăm công toại danh thành, Nào hay từ mẫu u minh sớm đời. Gắng vào trong quán an nơi, Tớ thầy than thở liệu lời qui lai. Tiểu đồng thở vắn than dài: "Trời sao! trời nỡ phụ tài người ngay". Trực rằng: "Đã đến nỗi này, Tiểu đồng bậu hãy làm khuây giải phiền. Sớm mai thang thuốc giữ gìn, Chờ ta vài bữa ra trường sẽ hay, Bây giờ kíp rước thợ may, Sắm đồ tang phục nội ngày cho xong. Dây rơm, mũ bạc, áo thùng. Cứ theo trong sách Văn Công mà làm".(128) Tiên rằng: "Mẹ bắc con nam, Nước non vọi vọi đã cam lỗi nghì. Trong mình không cánh không vi, Lấy chi lướt dặm, lấy chi bớt đàng. Vào trang phút lại gặp tang, Ngẩn ngơ người ở, ngỡ ngàng kẻ đi. Việc trong trời đất biết chi, Sao dời vật đổi còn gì mà trông. Hai hàng lụy ngọc ròng ròng, Tưởng bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu.
Cánh buồm bao quản gió xiêu, Ngàn trùng biển rộng, chín chìu ruột đau. Thương thay chín chữ cù lao, Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình". Quán rằng: "Trời đất thình lình, Gió mưa đâu phút gãy nhành thiên hương". Ai ai trông thấy cũng thương, Lỡ bề báo hiếu, lỡ đường lập thân. Dầu cho chước quỉ mưu thần, Phong trần ai cũng phong trần như ai. Éo le ai khéo đặt bày, Chữ tài liền với chữ tai một vần. Đường đi hơn tháng chẳng gần, Khi qua khi lại mấy lần xông pha. Xảy đâu bạn tác vừa ra, Trực cùng Hâm, Kiệm xúm mà đưa Tiên. Hâm rằng: "Anh chớ ưu phiền, Khoa nầy chẳng gặp ta nguyền khoa sau. Thấy nhau khó nổi giúp nhau, Một vừng mây bạc, dàu dàu khá thương". Vân Tiên cất gánh lên đường, Trịnh Hâm ngó lại đôi hàng nhỏ sa. Đi vừa một dặm xa xa, Phút nghe ông quán bôn ba theo cùng. Quán rằng: "Thương đấng anh hùng, Đưa ba hườn thuốc để phòng hộ thân. Chẳng may gặp lúc gian truân. Đương khi quá đói, thuốc thần cũng no". Tiên rằng: "Cúi đội ơn cho, Tấm lòng ngài ngại hãy lo xa gần". Quán rằng: "Ta cũng bâng khuâng, Thấy vầy nên mới tị trần đến đây. Non xanh nước bích vui vầy, Khi đêm rượu cúc khi ngày trà lan. Dấn thân vào chốn an nhàn, Thoát vòng danh lợi lánh đàng thị phi". Nói rồi quày quã ra đi, Vân Tiên xem thấy càng nghi trong lòng. Trông chừng dặm cũ thẳng xông, Nghĩ đòi cơn lại não nồng đòi cơn. Nên hư chút phận chi sờn, Nhớ câu dưỡng dục, lo ơn sinh thành. Mang câu bất hiếu đã đành, Nghĩ mình mà thẹn cho mình làm con. Trọn đời một tấm lòng son, Chí lăm trả nợ nước non cho rồi. Nào hay nước chảy hoa trôi, Nào hay phận bạc như vôi thế nầy. Một mình ngơ ngẩn đường mây Khác nào chiếc nhạn lạc bầy kêu sương. Đến nay lâm việc mới tường, Hèn chi thầy dạy khoa trường còn xa. Tiểu đồng thấy vậy thưa qua: "Gẫm đây cho đến quê nhà còn lâu. Thế sao chẳng ngớt cơn sầu, Mình đi đã mỏi, giòng châu thêm nhuần. E khi mang bệnh nửa chừng, Trong non khó liệu, giữa rừng khôn toan". Tiên rằng: "Khô héo lá gan! Ôi thôi! con mắt đã mang lấy sầu. Mịt mù nào thấy chi đâu, Chân đi đã mỏi mình đau như dần. Có thân phải khổ với thân, Thân ôi! thân biết mấy lần chẳng may!" Đồng rằng: "Trời đất có hay, Ra đi vừa đặng mười ngày lại đau.
Một mình nhắm trước xem sau, Xanh xanh bờ cõi, dàu dàu cỏ cây. Vốn không làng xóm chi đây, Xin lần tới đó tìm thầy thuốc thang. Vừa may gặp khách qua đàng, Người người đều chỉ vào làng Đồng Văn Dắt nhau khi ấy hỏi phăng, Gặp thầy làm thuốc, hiệu là Triệu Ngang. Ngang rằng: "Khá tạm nghỉ an, Rạng ngày coi mạch đầu thang mới đành. Gặp ta bệnh ấy ắt lành, Bạc tiền trong gói sẵn dành bao nhiêu?" Đồng rằng: "Tiền bạc chẳng nhiều, Xin thầy nghĩ lượng được điều thuốc thang. May mà bệnh ấy đặng an, Bạc còn hai lượng trao sang cho thầy". Ngang rằng: "Ta ở chốn nầy, Ba đời nối nghiệp làm thầy vừa ba. Sách chi cũng đủ trong nhà, Nội kinh đã sẵn, ngoại khoa thêm mầu. Trước xem Y học làm đầu, Sau coi Thọ Thế thứ cầu Đông Y. Gẫm trong Ngàn hải Tinh vi, Cùng là Cang mục thua gì Thanh nang. Gẫm trong Tập nghiệm lương phang. Cùng là Ngự Toản trải đàng Hồi xuân. Vị chi sẵn đặt quân thần, Thuốc thời bào chế mười phần nở nang. Mạch thời đọc mạch Lư san, Đặt vào tay bệnh biết đàng tử sinh Lục quân Tứ vật thang danh. Thập toàn, Bát vị, sẵn dành nội thương. Lại thông bát trận tân phương. Lâm nhằm ngoại cảm đầu thang Ngũ sài. Đồng rằng: "Thầy thiệt có tài, Xin vào coi mạch luận bài thuốc chi. Ngang rằng: "Lục bộ đều suy, Bộ quan bên tả mạch đi phù hồng. Cứ trong kinh lạc mà thông, Mạng môn tướng quả đã xông lên đầu. Tam tiêu tích nhiệt đã lâu, Muốn cho giáng hoả phải đầu Tư âm. Huỳnh liên, Huỳnh bá, Huỳnh cầm, Gia vào cho bội nhiệt tâm mới bình. Ngoài thời cho điểm vạn linh, Trong thời cho uống hoàn tình mới xong. Khá trao hai lượng bạc ròng, Bổ thêm vị thuốc để phòng đầu thang. Chẳng qua làm phúc cho chàng, Nào ai đòi cuộc đòi đàn chi ai". Tiểu đồng những ngỡ thiệt tài, Vội vàng mở gói chẳng nài liền trao. Mười ngày chẳng bớt chút nào, Thêm đau trong dạ như bào như xoi. Đồng rằng: "Vào đó thầy coi, Bệnh thời không giảm, thầy đòi tiền thêm". Ngang rằng: "Nằm thấy khi đêm. Tiên sư mách bảo một điềm chiêm bao. Quỉ thần người ở trên cao, E khi đường sá lẽ nào biết đâu? Tiểu đồng ngươi khá qua cầu, Cùng ông thầy bói ở đầu Tây viên". Tiểu đồng nghe nói đi liền, Gặp ông thầy bói đặt tiền mà coi. Bói rằng: "Ta bói hẳn hoi, Bói hay đã dậy, người coi đã đầy. Ta đây nào phải các thầy, Bá vơ, bá vất nói nhây không nhằm. Ôn nhuần Châu Diệc mấy năm, Sáu mươi bốn quẻ ba trăm dư hào. Huỳnh kim Dã hạc sách cao, Lục Nhâm, Lục giáp chỗ nào chẳng hay. Can, chi đều ở trong tay, Đã thông trời đất lại hay việc người. Đặt tiền quan mốt bốn mươi, Khay trầu chén rượu cho tươi mới thành". Thầy bèn gieo đặng quẻ lành, Chiêm tên tuổi ấy lộ trình mắc chi? Ứng vào rùa, với cỏ thi, Rồi thầy coi quẻ một khi mới tường".
Đồng rằng: "Người ở Đông phương, Nhân đi buôn bán giữa đường chẳng an. Con nhà họ Lục là chàng, Tuổi vừa hai tám, còn đàng thơ ngây". Bói rằng: "Đinh mão năm nay, Hèn chi giáp tí ngày rày chẳng an. Mạng kim lại ở cung càn, Tuổi nầy là tuổi giàu sang trong đời. Cầu tài quẻ ấy xa vời, Khen người khéo nói những lời trêu ta". Cầm tiền gieo xuống xem qua, Một Giao, hai Sách, lại Ba hào trùng. Trang thành là quẻ lục xung, Thấy hào phụ mẫu khắc cùng tử tôn. Hoá ra làm quẻ du hồn, Lại thêm thế động khắc dồn hào quang. Cứ trong quẻ ấy mà bàn; Tuổi nầy mới chịu mẫu tang trong mình Xui nên phát bệnh thình lình, Vì chưng ma quỉ lộ trình rất thiêng. Muốn cho bệnh ấy đặng yên, Phải tìm thầy pháp chữa chuyên ít ngày. Đồng rằng: "Thầy pháp đâu đây" Bói rằng: "Cũng ở chốn nầy bước ra, Pháp hay tiếng dậy đồn xa, Tên là Đạo Sĩ ở Trà Hương thôn". Tiểu đồng mới chạy bôn bôn, Hỏi thăm Đạo sĩ hương thôn chốn nào? Chợ đông buôn bán lao xao, Người ta liền chỉ nơi vào chẳng xa. Đồng đi một buổi tới nhà, Đạo sĩ xem thấy lòng mà mừng thay! Đồng rằng: "Nghe tiếng thầy đây, Trừ ma, ếm quỷ, phép thầy rất hay". Pháp rằng: "Ấn đã cao tay, Lại thêm phù chú xưa nay ai bì. Qua sông cá thấy xếp vi, Vào rừng cọp thấy phải quỳ lạy đưa. Pháp hay hú gió kêu mưa, Sai chim, khiến vượn, đuổi lừa, vật trâu. Pháp hay miệng niệm một câu, Tóm thâu muôn vật vào bầu hồ linh. Phép hay sái đậu thành binh, Bện hình làm tướng phá thành Diêm vương. Phép hay dạo hoả phó thang, Ngồi gươm đứng giáo mở đàng thiên hoang. Có ba lượng bạc trao sang, Đặng thầy sắm sửa lập đàn chữa cho". Đồng rằng: "Tôi chẳng so đo, Khuyên thầy gắng sức chớ lo khó giàu. Bấy lâu thầy tớ theo nhau, Bạc dành hai lượng phòng sau đi đàng. Chữa chuyên bệnh ấy đặng an, Rồi tôi sẽ lấy đem sang cho thầy". Pháp rằng: "Về lấy sang đây, Cho thầy toan liệu lập rày đàn ra". Đồng rằng: "Tôi đã lo xa, Cực vì người bệnh ở nhà chẳng yên. Xin thầy gắng sức chịu phiền, Ra công bùa chú chữa chuyên dường nào". Pháp rằng: "Có khó chi sao, Ngươi nằm ta chữa rối trao phù về". Đồng rằng: "Tôi vốn thằng hề, Bệnh chi mà khiến chịu bề chữa chuyên?" Pháp rằng: "Ta biết kinh quyền, Đau nam chữa bắc mà thuyên mới tài". Tiểu đồng nghe lọt vào tai, Lòng mừng vội vã nằm dài chữa chuyên. Pháp bèn cất tiếng hét lên: "Mời ông Bàn Cổ toạ tiền chứng miêng. Thỉnh ông Đại thánh Tề Thiên, Thỉnh bà Võ hậu đều liền đến đây. Thỉnh ông Nguyên soái chinh Tây, Cùng bà Vương mẫu sum vầy một khi. Thỉnh ông Phật tổ A Di, Thập phương chư Phật phù trì giúp công. Lại mời công chúa Ngũ Long, Bình Nam ngũ hổ hội đồng an dinh. Thỉnh trong thiên tướng, thiên binh, Cùng là tam phủ Động Đình Xích Lân. Thỉnh trong khắp hết quỉ thần, Cùng đều xuống chốn dương trần vui chơi. Cho người ba đạo phù trời, Uống vào khoẻ mạnh như lời chẳng sai". Tiểu đồng vâng lĩnh theo lời, Lấy phù trở lại toan bài thuốc thang. Vào nhà thưa với thầy Ngang: "Pháp phù đã đủ thầy toan phương nào?" Ngang rằng: "Còn bạc trong bao, Thời ngươi khá lấy mà trao cho thầy". Đồng rằng: "Tôi hãy ở đây, Bệnh kia dầu khá mình nầy bán đi". Triệu Ngang biết chẳng còn chi, Kiếm đường tráo chác đuổi đi khỏi vòng: "ở đây làng xóm khó lòng, E khi mưa nắng ai cùng đỡ che". Đồng rằng: "Trong gói vắng hoe, Bởi tin nên mắc, bởi nghe nên lầm. Mới lo chạy hết một trăm, Mình ve khô xép ruột tằm héo don. Thương thay tiền mất tật còn, Bơ vơ đất khách thon von thể nầy. Thôi thôi gắng gượng khỏi đây, Tôi đi khuyên giáo đỡ ngày gạo rau". Vân Tiên chi xiết nỗi sầu, Tiểu đồng dìu dắt gần cầu Lá Buôn. Đương khi mưa gió luông tuồng, Người buồn lại gặp kiểng buồn khá thương. Xiết bao ăn tuyết nằm sương, Màn trời chiếu đất dặm trường lao đao! Dầu cho tài trí bực nào, Gặp cơn nguy hiểm biết sao mà nhờ. Tiên rằng: "Đi đã ngất ngơ, Tìm nơi cây cối bụi bờ nghỉ chưn". Đồng rằng: "Chốc nữa khỏi rừng, Tìm nơi quán xá sẽ dừng nghỉ ngơi". Non tây vừa khuất mặt trời, Tớ thầy dìu dắt tới nơi Đại Đề.
X. TRỊNH HÂM HẠI VÂN TIÊN, TRÓI TIỂU ĐỒNG TRONG RỪNG, XÔ VÂN TIÊN XUỐNG SÔNG Trường thi một lũ vừa về, Trịnh Hâm xem thấy lại kề hỏi thăm: "Anh về nay đã hai rằm, Cớ sao mang bệnh còn nằm nơi đây" Tiên rằng: "Tôi vốn chẳng may, Chẳng hay chư hữu khoa nầy thế nao?" Hâm rằng: "Tử Trực đậu cao, Tôi cùng Bùi Kiệm đều vào cử nhân. Một mình về trước viếng thân, Hai người trở việc còn lần đi sau. Đương cơn hoạn nạn gặp nhau, Người lành nỡ bỏ người đau sao đành. Từ đây tới quận Đông Thành, Trong mình có bệnh, bộ hành sao xong. Lần hồi đến chốn Giang trung, Tìm thuyền ta sẽ tháp tùng với nhau". Tiên rằng: "Tình trước ngãi sau, Có thương xin khá giúp nhau phen nầy". Hâm rằng: "Anh tạm ngồi đây, Tiểu đồng ngươi tới trước nầy cùng ta. Vào rừng kiếm thuốc ngoại khoa, Phòng khi sông biển phong ba bất kỳ". Tiểu đồng vội vã ra đi, Muốn cho đặng việc quản gì lao đao. Trịnh Hâm trong dạ gươm đao, Bắt người đồng tử trói vào gốc cây: "Trước cho hùm cọp ăn mầy, Hại Tiên phải dụng mưu nầy mới xong".
Vân Tiên ngồi những đợi trông, Trịnh Hâm về nói tiểu đồng cọp ăn. Vân Tiên than khóc nằm lăn: "Có đâu địa hãm thiên băng thình lình. Bấy lâu đất khách lưu linh, Một thầy một tớ lộ trình nuôi nhau. Nay đà hai ngả phân nhau, Còn ai nâng đỡ trước sau cho mình". Hâm rằng: "Anh chớ ngại tình, Tôi xin đưa tới Đông Thành thời thôi". Vân Tiên chi xiết lụy rơi, Buồm đà theo gió chạy xuôi một bề. Tiểu đồng bị trói khôn về, Kêu la chẳng thấu bốn bề rừng hoang: "Phận mình đã mắc tai nàn, Cám thương họ Lục suối vàng bơ vơ. Xiết bao những nỗi dật dờ, Đò giang nào biết, bụi bờ nào hay. Vân Tiên hồn có linh rày, Đem tôi theo với đỡ tay chưn cùng!". Vái rồi lụy nhỏ ròng ròng, Đêm khuya ngồi dựa cội tòng ngủ quên. Sơn quân ghé lại một bên, Cắn dây mở trói cõng lên ra đàng. Tiểu đồng thức dậy mơ màng, Xem qua dấu đất ràng ràng mới hay. Nửa mừng nửa lại sợ thay, Chạy ra chốn cũ kiếm thầy Vân Tiên. Mặt trời vừa khỏi mái hiên, Người buôn, kẻ bán, chợ phiên nhộn nhàng. Hỏi thăm bà quán giữa đàng: "Bữa qua có thấy người tang chăng là?" Quán rằng: "Thôi đã ra ma, Khi mai làng xóm người đà đi chôn". Tiểu đồng nghe nói kinh hồn, Hỏi rằng: "Biết chỗ nào chôn chỉ chừng". Tay lau nước mắt rưng rưng, Xảy nghe tiếng nói đầu rừng lao xao. Tiểu đồng vội vã bước vào, Xóm làng mới hỏi: "Thằng nào tới đây?" Đồng rằng: "Tớ tới kiếm thầy, Chẳng hay người thác mả nầy là ai?" Người nầy: "Một gã con trai, Ở đâu không biết lạc loài đến đây. Chưn tay mặt mũi tốt thay, Đau chi nên nỗi nước nầy khá thương". Tiểu đồng chẳng kịp hỏi han, Nằm lăn bên mả khóc than một hồi. Người đều xem thấy thương ôi! Kêu nhau vác cuốc đều lui ra đàng. Tiểu đồng nằm giữa rừng hoang, Che chòi giữ mả lòng toan trọn bề. Một mình ở đất Đại Đề, Sớm đi khuyên giáo, tối về quảy đơm. Dốc lòng trả nợ áo cơm, Sống mà trọn nghĩa, thác thơm danh hiền. Thứ nầy đến thứ Vân Tiên, Năm canh ngồi dựa be thuyền thở than. Trong khăn lụy nhỏ chứa chan, Cám thương phận tớ mắc nàn khi không. Lênh đênh thuyền giữa biển đông, Riêng than một tấm cô bồng ngẩn ngơ. Đêm khuya lặng lẽ như tờ, Nghênh ngang sao mọc, mịt mờ sương bay. Trịnh Hâm khi ấy ra tay, Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời. Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời, Cho người thức dậy lấy lời phôi pha. Trong thuyền ai nấy kêu la, Đều thương họ Lục, xót xa tấm lòng.
XI. NGƯ ÔNG VỚT VÂN TIÊN LÊN, ĐƯA VỀ NHÀ VÕ CÔNG Vân Tiên mình lụy giữa giòng, Giao long dìu dắt vào trong bực rày. May vừa trời đã sáng ngày, Thuyền chài xem thấy vớt ngay lên bờ. Khiến con vầy lửa một giờ, Ông hơ bụng dạ, bà hơ mặt mày. Vân Tiên vừa ấm chưn tay, Ngẩn ngơ hồn phách như say mới rồi. Ngỡ than mình phải nước trôi, Hay đâu mình hãy đặng ngồi dương gian. Ngư ông khi ấy hỏi han, Vân Tiên thưa hết mọi đàng gần xa. Ngư rằng: "Người ở cùng ta, Sớm mai hẩm hút một nhà cho vui". Tiên rằng: "Ông lấy chi nuôi, Thân tôi như thể trái mùi trên cây. May đà trôi nổi đến đây, Không chi báo đáp mình nầy trơ trơ". Ngư rằng: "Lòng lão chẳng mơ, Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn? Nước trong rửa ruột sạch trơn, Một câu danh lợi chi sờn lòng đây. Rày doi, mai vịnh vui vầy, Ngày kia hứng gió, đêm nầy chơi trăng. Một mình thong thả làm ăn, Khoẻ quơ chày kéo, mệt quăng câu dầm. Nghêu ngao nay chích mai đầm, Một bầu trời đất vui thầm ai hay. Kinh luân đã sẵn trong tay, Thung dung dưới thế vui say trong trời. Thuyền nan một chiếc ở đời. Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang". Tiên rằng: "Vậy cũng một làng, Võ Công người ở gần đàng đây chăng?" Ngư rằng: "Nhà ở cũng gần, Khỏi ba khúc vịnh thời lần đến nơi". Tiên rằng: "Xưa đã gá lời, Sui gia bao nỡ đổi lời chẳng thương. Vợ chồng là đạo tao khương, Chi bằng tới đó tìm phương gởi mình. Trăm năm muốn trọn ân tình, Đương khi hoạn nạn ai đành bỏ nhau. Chút nhờ cứu tử ơn sâu, Xin đem tới đó trước sau cho tròn". Ngư rằng: "Làm đạo rể con, Cũng như sợi chỉ mà lòn trôn kim Sợ bay mà mỏi sức chim, Bơ vơ cảnh lạ khôn tìm cây xưa. E khi chậm bước tới trưa, Chớ tin sông cũ bến xưa mà lầm. Mấy ai ở đặng hảo tâm, Nắng đun chót nón, mưa dầm tả tơi. Mấy ai hay nghĩ việc đời, Nhớ nơi nghèo khổ quên nơi sang giàu. Đã ba thứ tóc trên đầu, Gẫm trong sự thế thêm âu cho đời".
Vân Tiên thưa đã hết lời, Ngư ông chẳng đã tách vời đưa sang. Dắt Tiên vào chốn hậu đàng, Võ Công xem thấy lòng càng hổ ngươi. Chẳng qua sợ thế gian cười, Một lời gượng gạo chào người ngày xưa, Ngư ông đã có công đưa, Tới ngày sau sẽ lo lừa đền ơn". Ngư rằng: "Tôi chẳng lòng sờn, Xin tròn nhân ngãi còn hơn bạc vàng. Nhớ xưa trong núi Lư San, Có ông Ngư phủ đưa chàng Ngũ Viên. Tới sau đình trưởng đỗ thuyền, Giúp người Hạng Võ qua miền Ô Giang. Xưa còn thương kẻ mắc nàn, Huống nay ai nỡ quên đàng ngãi nhân". Một lời gắng giúp keo sơn, Ngư ông từ giã lui chưn xuống thuyền.
XII. VÕ CÔNG GIẢ ĐƯA VỀ ĐÔNG THÀNH, ĐEM VÂN TIÊN BỎ TRONG HANG THƯƠNG TÒNG Võ Công không ngớt lòng phiền, Ân tình thế lợi khó tuyền đặng vay.
Dạy Tiên: "Người hãy ngồi đây, Cho ta trở lại sau nầy liệu toan". Công rằng: "Hỡi mụ Quỳnh Trang, Dò lòng ái nữ Thể Loan thế nào? Mặc con toan liệu làm sao, Vốn không ép vợ, nỡ nào ép con". Loan rằng: "Gót đỏ như son, Xưa nay ai nỡ đem chôn xuống bùn? Ai cho sen muống một bồn, Ai từng chanh khế sánh phồn lựu lê. Thà không trót chịu một bề, Nỡ đem mình ngọc dựa kề thất phu. Đã công chờ đợi danh nhu, Rể đâu có rể đui mù thế ni. Đã nghe người nói hội nầy, Rằng: Vương Tử Trực chiếm rày thủ khoa. Ta dầu muốn kết sui gia, Họ Vương họ Võ một nhà mới xinh". Công rằng: “Muốn trọn việc mình, Phải toan một chước dứt tình mới xong. Nghe rằng: Trong núi Thương Tòng, Có hang thăm thẳm bịt bùng khôn ra. Đông Thành ngàn dặm còn xa, Đem chàng bỏ đó ai mà biết đâu?". Phút vừa trăng đã đứng đầu, Vân Tiên ngồi trước nhà cầu thở than. Võ Công ra trước dỗ chàng, Xuống thuyền rồi sẽ đưa sang Đông Thành. Ra đi đương lúc tam canh, Dắt vào hang tối bỏ đành Vân Tiên. Bỏ rối rón rén bước liền, Xuống gay chèo quế dời thuyền tách xa. Tiên rằng: "Các chú đưa ta, Xin đưa tôi tới quê nhà sẽ hay. Ghi lòng dốc trọn thảo ngay, Một phen mà khỏi ngàn ngày chẳng quên". Lắng nghe vắng tiếng hai bên, Trong hang tăm tối đá trên chập chồng. Vân Tiên khi ấy hãi hùng, Nghĩ ra mới biết Võ Công hại mình. Nực cười con tạo trớ trinh, Chữ duyên tráo chác, chữ tình lãng xao. Nghĩ mình tai hại biết bao, Mới lên khỏi biển lại vào trong hang. Dây sầu ai khéo vương mang, Tránh nơi lưới thỏ, gặp đàng bẫy cheo. Trong hang sau trước quạnh hiu, Muốn ra cho khỏi ai dìu dắt đi? Oan gia nợ đã khéo gây, Ôi thôi thân thể còn gì mà toan. Đã đành xa cõi nhân gian, Dựa mình vào chốn thạch bàn nằm co. Đêm khuya ngọn gió thổi lò, Sương sa lác đác mưa tro lạnh lùng. Năm ngày chịu đói khát ròng, Nhờ ba hườn thuốc đỡ lòng hôm mai.
XIII. DU THẦN CỨU RA KHỎI HANG, GẶP LÃO TIỀU CÕNG VÂN TIÊN VỀ NHÀ Du thần xem thấy ai hoài, Xét trong mình gã có bài phù tiên. Mới hay là Lục Vân Tiên. Cùng nhau dìu dắt đều liền đem ra. Khỏi hang một dặm vừa xa, Đến nơi đại lộ trời đà hừng đông. Du thần trở lại sơn trung, Vân Tiên còn hãy giấc nồng mê mang. Lão tiều cơm gói sẵn sàng, Sớm mai xách búa đi ngang vào rừng. Tới đường đại lộ là chừng, Xảy nghe có tiếng trong rừng thở than. Hay là yêu quái tà gian, Rung cây nhát lão làm đường hại nhân. Lão tiều liền bước lại gần, Thiệt là một gã văn nhân mắc nàn. Chi bằng lên tiếng hỏi han: "Nhân sao mắc việc tai nàn thế nây?" Vân Tiên nghe tiếng mừng thay, Vội vàng gượng dậy trình bày trước sau. Lão tiều nghe nói giờ lâu, Gẫm trong thế sự gật đầu thở than: "Ít người trong tuyết đưa than, Khó ngồi giữa chợ ai màng đoái thương". Vân Tiên nghe nói mới tường, Cũng trang ẩn dật biết đường thảo ngay: "Ngửa trông lượng cả cao dày, Cứu trong một buổi, ơn tày tái sinh. Mai sau về tới Đông Thành, Đền ơn cứu khổ mới đành dạ tôi". Lão tiều mới nói: "Thôi thôi, Làm ơn mà lại trông người sao hay? Già hay thương kẻ thảo ngay, Nầy thôi để lão dắt ngay về nhà". Tiên rằng: "Trong dạ xót xa, Nay đà sáu bữa không hoà mùi chi. Lại thêm rũ liệt tứ chi, Muốn đi theo đó mà đi khôn rồi". Lão tiều nầy ngỡ nực cười, Mở cơm trong gói miệng mời Vân Tiên: "Gắng mà ăn uống cho yên, Lão ra sức lão cõng Tiên về nhà".
Link
https://cailuongmuseum.vn/5f5e5aF42h3dF3A
// Dòng này sẽ