✨Bác Ba Phi - P1
Bác Ba Phi là một nhân vật trong văn học nhân gian. Ông là nhân vật chính trong những câu chuyện kể về cuộc sống sinh hoạt thường ngày nhưng được cường điệu quá đáng (như rắn tát cá, chọi đá làm máy bay rơi, leo cây ớt té gãy chân...) và được trình bày một cách tự nhiên khiến người nghe hoàn toàn bất ngờ và bật cười. Ông là nhân vật cận đại nhất trong lịch sử kho tàng truyện trạng (nói dóc) của văn học Việt NamNhân vật nguyên mẫu của Bác Ba Phi là nghệ nhân Nguyễn Long Phi (1884-1964). Ông vốn là một nông dân tại huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, vốn có khiếu kể chuyện rất phong phú và đặc sắc, được nhiều người ưa thích.
Ông sinh năm 1884 tại tỉnh Đồng Tháp, do gia đình quá nghèo nên từ nhỏ ông phải đi cày thuê để nuôi tám người em nhỏ. Khi 15 tuổi, mẹ ông qua đời, ông trở thành một lao động chính trong gia đình. Tuy cuộc sống cơ cực, ban ngày phải đi khẩn hoang, cày cuốc ruộng vườn, nhưng đến ban đêm, ông thường tham gia tụ họp đờn ca, và được bà con trong xóm mê tiếng ca và nể trọng tính tình vui vẻ, bộc trực, khẳng khái, đặc biệt là những câu chuyện kể và cách kể truyện lôi cuốn người nghe của ông.
Vốn làm tá điền cho Hương quản Tế - một địa chủ giàu có vùng Bảy Ghe, ông được Hương quản Tế hứa gả cô con gái là Ba Lữ với điều kiện phải làm công trong ba năm. Nhờ sức chịu thương chịu khó, nên sau ba năm thì ông cưới được vợ. Cũng do điều này mà Hương quản Tế rất yêu thương người con rể này và đã cắt chia cho vợ chồng Ba Phi khá nhiều đất. Cộng với sự cần cù sẵn có, ông đã ra sức khai khẩn phần đất được chia thành đồng ruộng cò bay thẳng cánh.
Hai người lấy nhau một thời gian mà không có con, vì vậy bà Ba Lữ đã đứng ra cưới vợ hai cho chồng. Bà này sinh được một người con trai là Nguyễn Tứ Hải. Không rõ vì lý do gì mà khi Nguyễn Tứ Hải mới ba tuổi, bà đã gửi con cho chồng rồi về quê ở Mỹ Tho cho đến lúc qua đời. Ông Nguyễn Tứ Hải về sau lập gia đình với bà Nguyễn Thị Anh, sinh hạ một người con trai – cháu đích tôn của bác Ba Phi – tên là Nguyễn Quốc Trị. Trong những câu chuyện của bác Ba Phi thì đây chính là nhân vật thằng Đậu nổi tiếng. Và cũng có thành ngữ "Tệ như vợ (thằng) Đậu" được dùng để chỉ những người vụng về.
Về sau bác Ba Phi cưới thêm vợ ba. Bà tên Chăm, là người dân tộc Khmer. Bà sinh được hai đứa con gái.
Bác Ba Phi qua đời ngày 3 tháng 11 năm 1964 tại rừng U Minh Hạ, nay là ấp Đường Ranh, xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Phần mộ của ông được đặt giữa hai ngôi mộ của bà Ba Lữ và bà Chăm tại ấp Đường Ranh, xã Khánh Hải nằm ở một góc rừng U Minh Hạ.
Hiện nay, khu nhà và mộ phần của bác Ba Phi được xây dựng thành tuyến du lịch văn hóa của tỉnh Cà Mau.Bác Ba Phi thuộc lớp hậu duệ của những tiền nhân đi khai mở đất rừng U Minh. Cả quãng đời, mà đặc biệt là thời tuổi trẻ của bác Ba Phi, là quá trình khai phá đất rừng U Minh nguyên sinh, vốn rất hào phóng mà cũng lắm khắc nghiệt. Với tinh thần khai phá, tính lạc quan yêu đời, thế giới quan của ông hiện ra thật sinh động và đáng yêu.
Những câu chuyện kể của ông, truyện nào cũng mang lại cho người nghe trước hết là tiếng cười sảng khoái, mượt mà âm sắc trào lộng, rất đặc hiệu Ba Phi, đồng thời nó còn ẩn chứa tính hào hùng của lớp người đi mở đất, tính cách đặc trưng Nam Bộ, lòng yêu thương thiên nhiên và con người.
Cho đến tận ngày ông qua đời, không có một văn bản nào chính thức có ghi chép lại những câu chuyện do ông kể, kể cả người trong thân tộc ông. Những câu chuyện kể của bác Ba Phi là những câu chuyện truyền miệng. Tuy nhiên, nó cũng đầy đủ hình thức cấu trúc văn học: mở đề, thắt nút và kết thúc. Một mặt, nó cũng hao hao một loại tiểu thuyết chương, hồi rút gọn, dù có đảo lộn trật tự thế nào cũng giữ được ý nghĩa và tính xuyên suốt của những câu chuyện kể độc lập.
Những câu chuyện của bác Ba Phi, do tính chất "truyền miệng", vì vậy thường bị “biên tập” hoặc “hiệu chỉnh” lại trong quá trình câu truyện “lưu lạc”. Thêm vào đó, cũng có không ít những câu chuyện do người khác sáng tác, nhưng vẫn lấy danh xưng bác Ba Phi.
Năm 2002, Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Cà Mau tổ chức hội thảo chủ đề “Hiện tượng Ba Phi trong văn hóa dân gian Việt Nam”, với sự tham gia của nhiều giáo sư, tiến sĩ và các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian trong cả nước. Cũng trong năm đó, Bác Ba Phi được Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian.
Nơi thờ tự Bác Ba Phi
Từ Cà Mau, theo tuyến lộ Cà Mau - Đá Bạc, đi khoảng hơn 30 cây số, đến xã Khánh Hưng bao đò vô kênh Chín Bộ, quẹo phải đến kênh Lung Tràm vài trăm mét là đến nhà Nguyễn Long Phi (Bác Ba Phi). Tại đây, chúng tôi tìm gặp ông Nguyễn Văn Đáp, là cháu rể kêu Bác Ba Phi bằng ông nội. Được ông giới thiệu người truyền khẩu truyện Bác Ba Phi. Ông nói, dân Lung Tràm xã Tân Hải, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau không ai mà không biết các ông Sáu Nhuận, Bào Văn Thái, Trần Văn Danh... nhưng theo quy luật sanh tử nên hiện nay chỉ còn một mình ông Trần Văn Danh, gọi là ông Năm Danh, ông Năm truyền khẩu. Năm Danh năm nay đã 63 tuổi, nhưng trông vạm vỡ, cao to không khác gì “lực sĩ nơi Lung Tràm U Minh Hạ”. Hôm chúng tôi đến, ông đang đi xã mua dầu bơm nước chuẩn bị sạ lúa, nghe đứa cháu nội báo có nhà báo tới, ông bơi xuồng quay về.
Kênh Lung Tràm - đường vào nhà Bác Ba Phi Ông Năm Danh ra bộ theo truyện kể “Gác kèo ong mật”
Căn nhà của ông chỉ cách phần mộ Bác Ba Phi không đầy 200m, nhưng ông một mực muốn tiếp chúng tại ngôi nhà thờ Bác Ba Phi hiện đang bỏ hoang, mưa nắng bào mòn dột nát, trong nhà chỉ còn có bàn thờ Bác Ba và bộ giường tre. Bà Năm, vợ ông kể lại: “Ngày Năm Danh về với làng này từ hồi còn thanh niên, trông ông khỏe mạnh, cao to, nhưng đi với Bác Ba Phi lại một trời một vực. Bác Ba cao to lắm. Từ nhỏ, ổng hay theo Bác Ba Phi đi làm ruộng, nên thân hình gân guốc và lớn mạnh như thế.
Nhưng chính Bác Ba Phi, là những người truyền lại truyện cười dân gian Nam bộ, nó như những truyện cổ tích giữa đời thường đã ăn sâu vào tâm hồn của Năm Danh từ tấm bé. Hồi đó, Năm Danh rất khoái Bác Ba Phi kể chuyện, nhưng lại “ngán” Bác Ba mỗi lần “xỉn” là bắt ông đưa về. “Ngán” nhưng vẫn theo. Những lần nằm trên bắp đùi nghe Bác Ba Phi kể chuyện cho người dân trong xóm nghe bằng những câu chuyện cười ca ngơi sự trù phú của vùng đất U Minh, chuyện về trăn tát đìa, cọp xay lúa, cá lóc ăn dừa khô, chém trực thăng... với những tiếng cười ôm bụng của mọi người, đã làm ông nhớ mãi. Chuyện Ba Phi ngấm vào máu thịt, tâm hồn ông bởi những nghệ thuật ngôn từ, thi pháp kể chuyện dân gian... Ký ức ấy nuôi dưỡng ở Năm Danh và trở thành niềm đam mê kể chuyện cười tiếu lâm Bác Ba Phi từ những ngày vác phảng đi phác cỏ ruộng, kéo ống bơm nước vào ruộng, hay đặt lờ và cả những ngày đi gặt vần công ở tận cánh đồng Ngã tư Chủ Mía...
Ông Năm Danh hay hút những hơi thuốc thật dài sau những câu truyện kể
Ngày 3 tháng 11 năm 1964, Bác Ba Phi qua đời, ông tổn thất lớn về tinh thần. Bởi ông coi ông dượng Ba Phi là thần tượng có một không hai của thế gian này. Ông suy tôn Bác Ba Phi là “Vua Trạng đất phương Nam”. Quyết không thể để truyện cười của Nam bộ mất đi, Năm Danh bắt đầu đem truyện cười Bác Ba Phi kể cho dân làng nghe sau những buổi làm ruộng, vườn, những đêm đi tuần đất về tụ tập nhau uống rượu. Năm Danh vừa lai rai, vừa kể chuyện quên cả thời gian, có khi tàn cuộc vui đến gà gáy sáng vẫn chưa hết chuyện. Tôi hỏi sao thuộc nhiều truyện của Bác Ba Phi quá vậy, Năm Danh cười nói: “Ông Ba Phi là ông dượng của tui, mà tui hồi nhỏ lúc nào cũng theo kè kè ông hết, hễ ông kể mẩu chuyện nào thì tui thuộc làu làu, làm sao mà quên được”.
Ngồi trước bàn thờ Bác Ba Phi, ông Năm Danh nói chỉ kể những truyện mà chính ông đã được Bác Ba Phi truyền lại
Có những câu chuyện mà tôi tâm đắc, chẳng hạn như kể chuyện Rùa làm ổ cho ông Bảy Bền, ông Năm Tôn nguyên là cán bộ công an của huyện nghe về chuyện hàng trăm con rùa vàng đang làm ổ đẻ trứng trong đám sậy. “Tụi mầy muốn ăn rùa thì tiếp tao dọn hết liếp sậy, tao cho hết mấy ổ trứng rùa về ngoải mà nhậu!” Tưởng Bác Ba nói thật, hai ông liền vác phảng ra phác hết đám sậy, nhưng không thấy một ổ rùa nào. Bác Ba liền nói “ý mà Bác quên, bây giờ mới nửa tháng 11 hà, rùa còn ẩn mình dưới ruộng, nó chưa chịu lên. Thôi vô đây lai rai với tao một vài ly rồi về. Cuối tháng vô đây tao cho đám sậy khác mà bắt”.
Truyện cười của Bác Ba Phi là một pho truyện cười của Nam bộ, nếu như ở miền Bắc có Trạng thì ở Nam bộ có Bác Ba Phi. Hiện nay có nhiều cuộc hội thảo, sưu tầm, nghiên cứu về đề tài này, nhưng có lẽ hiệu quả nhất, gần gũi với người dân ít chữ như vùng Lung Tràm chính là hình thức truyền khẩu. Những người kể truyện Ba Phi như Nguyễn Văn Nhuận, Bào Văn Thái đã về với Bác Ba Phi, nhưng để lại cho đời một hình thức kể chuyện truyền khẩu cho rất nhiều người, như ông Năm Danh, anh Nam Tiên, chị Hai Minh... Có lần tôi cùng người dân trong xóm tập trung ngồi xung quanh bộ giường tre của từ đường Bác Ba để nghe Năm Danh kể chuyện
Phần mộ của Bác Ba Phi và hai bác gái
. Những câu chuyện vui như Chém trực thăng, Heo đi cày, Cá trê Lung Tràm, Gác kèo ong mật... mọi người đều cười lên thích thú. Năm Danh vừa kể vừa ra bộ, có lúc lại nằm tréo cẳng ra, tay cầm điếu thuốc đưa lên miệng, nhả khói phì phà theo nội dung câu chuyện. Nhiều đứa trẻ nghe hấp dẫn đến nỗi hả hốc mồm, nước miếng nhễ nhại mà không hay biết. Ông kể từ 2 giờ chiều đến trời tối. Ếch, nhái, ễnh ương kêu inh ỏi mà mọi người vẫn háo hức ngồi nghe.
Ông Năm Danh thật vui tánh, nhưng cũng rất dễ “tự ái nghề nghiệp”. Nếu thấy mọi người giục “ừ, ừ hay quá he ông Năm, kể thêm nữa đi thì kể tiếp, có những câu chuyện dài kể tới khô lưỡi mới hết. Cứ kể hết một mẩu truyện là ông năm hút điếu thuốc và uống một ly rượu lấy giọng. Nhưng nếu nói ông Năm nói chữ là tự ái đứng dậy, ra về.
Nguyễn Văn Đập, cùng con cháu Bác Ba Phi thắp hương trước bàn thờ
Chỉ hai, ba năm trở lại đây, khi các ông vua truyền khẩu truyện Bác Ba Phi qua đời, và hiện nay tuổi đã cao, sức yếu, nên ông Năm Danh ít đi xa như thời trai trẻ. Dân trong vùng muốn nghe chuyện thì tới nhà mời. Các đoàn tham quan từ khắp nơi đến viếng phần mộ Bác Ba Phi thì ông đến ngôi nhà thờ Bác Ba hoặc ngồi ngay tại phần mộ làm vài truyện. Ông nói “tui chỉ kể những truyện mà tôi biết từ khi theo ông dượng Ba Phi và được ông truyền lại, truyện thật 100%, chứ những truyện bịa tui không dám kể trước phần mộ ông”.
Những truyện Bác Ba Phi đem lại cho người đời những tiếng cười đến ôm bụng, thì hiện nay mọi người có đến viếng ông chắc hẳn sẽ cười, nhưng “cười đến ra nước mắt!”. Cười cho những đứa cháu nội của ông (con của bà Nguyễn Thị Anh, dâu của Bác Ba Phi) tranh giành phần đất do ông Ba Phi để lại. Ba Phi qua đời, vợ chồng Bà Anh là người thờ tự và khi chồng bà Anh qua đời, Bà chia phần cho các con mỗi người đôi ba công đất. Con thứ ba là Nguyễn Quốc Trị được bà chia cho một phần đất nằm ngang, nhưng ông đòi phải là xuôi theo mặt tiền kênh Lung Tràm. Bà không bằng lòng. Vậy là ông chặt ngón tay thề không lấy đất của mẹ. Người con thứ năm cũng có phần 6 công ruộng, một miếng vườn. Bà túng thiếu nên cố (cầm) cho gia đình đứa con thứ năm 7 chỉ vàng và bằng 30 giạ lúa/năm. Nhưng khi bà lấy lúa thì con của bà ra điều kiện: khi nào bà làm sổ đỏ, tui mới đong lúa. Đến khi bà nhờ đến chính quyền can thiệp thì mới được nhận lúa, nhưng đợi đến mùa sau mới đong. Những tưởng bà Anh ở với người con gái thứ hai cùng với bà để hương khói Bác Ba và tổ đường, nhưng khi con gái có chồng, bà không bằng lòng. Bà phản đối vì người chồng đã có vợ có con. Vậy là con gái thứ hai của bà dọn đồ trong nhà ra đi. Bà Anh cô đơn một mình, bà không dám ở, nên theo con gái thứ tư về tận Cà Mau để sống những ngày còn lại.
Vách nhà nơi thờ tự Bác Ba Phi
Bà Anh ra đi, để lại một căn nhà ba căn, vách lá đổ rách. Nơi mang tiếng cười đến với mọi người giờ chỉ là nơi lạnh lẽo, hoang sơ. Duy nhất người con rể thứ tư của bà Anh sống có tình có nghĩa. Hằng ngày ông đến quét dọn, thắp hương cho ông nội và tổ đường, ông hiện nay sắp tuổi lục tuần, chỉ mong chính quyền địa phương quan tâm hòa giải sao cho hợp tình hợp lý, để sớm xóa đi nỗi quạnh hiu trong căn nhà – nơi còn đó một di ảnh Bác Ba Phi, ông vua truyện cười của vùng đất phương Nam.
Bà Anh ra đi, để lại một căn nhà ba căn, vách lá đổ rách. Nơi mang tiếng cười đến với mọi người giờ chỉ là nơi lạnh lẽo, hoang sơ. Duy nhất người con rể thứ tư của bà Anh sống có tình có nghĩa. Hằng ngày ông đến quét dọn, thắp hương cho ông nội và tổ đường, ông hiện nay sắp tuổi lục tuần, chỉ mong chính quyền địa phương quan tâm hòa giải sao cho hợp tình hợp lý, để sớm xóa đi nỗi quạnh hiu trong căn nhà – nơi còn đó một di ảnh Bác Ba Phi, ông vua truyện cười của vùng đất phương Nam.Năm đó, tui làm đám mạ ở gần mé rừng. Nói là “làm đám mạ”, vậy chớ có làm gì đâu. Ở xứ này mà, tháng hạn châm một mũi lửa là mặt đất bị cháy sạch. Chờ tới sa mưa, đội lúa giống ra, coi chỗ nào ưng ý là gieo. Giống lúa tôi đã ngâm lên đủ ba càng, một mộng đàng hoàng, từ trong nhà đội ra. Bữa đó trời trong, im gió, nhưng không biết sao tui nghe dường như có mây che mù mịt trên đầu, có cả tiếng gió rì rầm đâu xa xa nữa. Ra đến nền đám mạ, tôi để thúng lúa giống trên đầu xuống. Thì... trời ơi ! Chim dòng dọc với chim lá rụng nằm đầy nhóc một thúng giạ. Chúng đã ăn sạch sẽ cái thúng lúa giống của tui, không còn một hột để nhổ râu. Nghe động, chúng bay lên cái rần, chỉ còn lại các thúng không.
Tức quá, tui về nhà ngâm thêm một gịa lúa giống nữa. Vài ngày sau, tui cũng đội lúa ra gieo y nền cũ. Lần này biết khôn, tui không để thua mấy con chim này nữa. Một tay tui vịn thúng lúa, một tay cầm nhánh chà quơ quơ phía trên đầu. Vậy mà tới đám mạ, thúng lúa cũng bị chim ăn hết phân nửa.
Bây giờ mới bắt đầu gieo hột. Tui cặp thúng lúa vào nách, đi thụt lùi, vãi ào ào. Vãi hết thúng lúa giống, đến chừng coi lại thì không có một hột nào rơi được tới đất. Chuột ! Chuột đứng xếp hàng. Con nào cũng vậy, một tay chắp sau đít, một tay đưa ra hứng lúa. Chúng vừa ăn, vừa vuốt râu. Có mấy con chuột già không hứng lúa để ăn, ngồi ngoài rìa đám mạ, mặt mày buồn thiu./.“Gần tết năm đó,bac ba Phi cùng Đậu cháu ông và con chó mực đi đến nhà ông Hai Móm ở đầu xóm chơi. Thấy khách đến nhà, nên ông Hai Móm mới lấy bánh ít lên đãi khách. Vì là chủ nhà nên ông ăn trước, nhưng khi ông Hai ăn bánh thi không thấy nói gì nữa mà chỉ ra hiệu cho bác Ba Phi ăn bánh. Do bánh ít quá dính nên bác ba phi phải gỡ một lúc mới ra, nhưng mạnh tay quá làm văng luôn miếng bánh dính lên cây cột nhà. Con chó mực thấy vậy liền nhảy lên táp miếng bột. Tức thì con chó dính luôn lên cây cột. Ông hai thấy vậy mắc cười quá, cười phá lên làm văng luôn miếng bánh trong miệng ra. Miếng bánh văng trúng luôn bàn thờ kèm theo là hàm răng giả cua ông Hai, con chó thấy vậy bay qua táp miếng bánh trên tủ thờ và táp luôn hàm răng gia cua ông Hai Móm .“Đêm hôm đó, lúc tôi đang xay lúa, bỗng nghe hơi cọp, liền biết “ông thầy” đang rình bên ngoài. Nhờ biết trước, tôi vừa xay lúa vừa thủ thế. Quả nhiên, trong chớp mắt cọp nhào vô chụp tôi. Tôi liền né sang bên. Cọp lỡ đà vướng hai chân trước vào giằng xay. Thế là nó sa đà theo vòng quay của cái cối đang quay. Thấy vậy, tôi hối “Bả” xúc lúa đổ vào cối. Đợi cho tới lúc cọp xay hết 20 giạ lúa, tôi liền hét lên một tiếng thật to: “Cọp”! Nó hoảng quá, đâm đầu chạy tuốt ra rừng. Từ đó về sau cọp “bỏ tật” bắt người ăn thịt”.“Năm rồi, trời sa mưa đầu mùa, ếch kêu khắp bốn phía, đâu đâu cũng có tiếng “uệch uệch”. Chỉ riêng trong vườn nhà tôi có một tiếng ếch rất đặc biệt, nó kêu đến cảm thấy thèm ăn thịt ếch mà ngủ không yên. Tôi biết đây là loại “ếch bà”.
Sáng hôm sau, tôi bắt một con vịt mới nở làm mồi, trong khi tôi thả con mồi chưa tới mặt nước thì con ếch từ trong hang ló ra; nó lắc đầu lia lịa rồi ngồi chờ ở miệng hang.
Tôi biết con ếch này đòi ăn mồi lớn, tôi bắt con vịt mái đẻ ra câu. Vừa trông thấy con mồi, con ếch gật đầu liên tiếp mấy cái rồi hớp nước súc miệng. Xong, ếch khoát tay ra hiệu cho tôi thả con vịt mái xuống. Thế là ếch đưa hai tay ra đón con mồi đưa thẳng vào mồm.
Đợi cho ếch nuốt mồi xong, tôi giật mạnh một phát. Té ra, hàng cau của tôi gãy liền một lúc đến 3 cây, con ếch thì vẫn nằm yên tại chỗ. Còn sợi nhợ câu lúc này căng thẳng tối đa. Thấy vậy, tôi ngồi xuống khảy vào sợi nhợ ấy mà ca luôn 6 câu vọng cổ”. Dân sống vùng quê sợ nhất là mỗi lần nghe lính đến càn. Chữ “càn” của nó rất đa nghĩa. “Càn” gà vịt của người ta, “càn” cả phụ nữ, già hổng bỏ, nhỏ hổng tha. Ngoài ra, mục tiêu chính nữa của chúng trong các cuộc đi càn là càn của cải, tiền bạc.
Mới sáng sớm, mà Hai Lúa đã qua tìm tao than thở :
- Kỳ này, tụi lính đồn nó đi càn quặn dữ đa. Nó đã hốt sạch bầy vịt hai trăm con, không còn lấy một mống.
Tao chưa kịp trả lời thì thằng Tư Ruộng đã chống xuồng qua tới :
- Chú Ba ! Tụi lính đồn đã khen con heo của tui hai tạ mấy, nó còn khen tui khéo nuôi nên con heo mập ú ù.
Nghe nó nói, tui tức muốn ói máu.
Câu chuyện chưa dứt, thì xuồng của bọn lính đã tới lộ quẹo. Bọn chúng đi tới đâu, heo, gà, vịt kêu nhoi trời tới đó khiến Ba Phi này nóng mũi. Vỗ vai Hai Lúa, an ủi Tư Ruộng, tao gằn lời :
- Được. Mọi người cứ để tui kêu tụi nó thả vịt, heo ra cho. Giờ Tư Ruộng ra đầu hè lượm mớ bọng dừa khô gom lại, nhóm lửa đốt cho có than.
Thấy thằng trưởng đồn dẫn lính tới sát vách nhà, tao cố nói lớn :
- Nhóm cho có thật nhiều than nghen ! Còn tui sẽ xuống mương mò bậy vài chục tôm càng xanh lên làm mồi nhậu chơi.
- Bộ trong mương vườn ông có tôm càng hả ? - Tên trưởng đồn sáng mắt.
Tao lặng thinh, lẳng lặng cởi áo lội xuống kinh bắt đầu vớt tàu dừa, mo nang, bọng dừa quăng lên bờ cho sạch hai bên bờ kinh. Sau đó, tao mò theo cặp nước bắt tôm thảy lên, kêu Hai Lúa, Tư Ruộng bỏ vô bếp than nướng, rồi rủ thằng trưởng đồn cùng nhậu.
Ăn một hơi hết mấy cái đầu tôm, uống hết mấy chung rượu áp sanh đậm đà hương vị nên thằng trưởng đồn khoái chí :
- Này, bác Ba ! Bác có thể kiếm cho tui mấy cái mương vườn kiếm tôm ăn chơi không ?
- Ôi thôi ! – tao xua tay nói xỏ - Mò tôm chi cho cực. Nội ba con gà, con vịt ông nhậu khẳm rồi, lặn hụp chi cho nó lạnh.
Biết tao nói lẫy nên thằng trưởng đồn cụng ly nốc cạn, rồi quay ra nói lớn :
- Tụi bây đâu ! Trả heo, trả vịt hết đi rồi hết thảy lột đồ nhảy xuống mương mò tôm càng về tao nhậu một bữa cho đã coi.
Thằng đồn trưởng lại tiếp tục nhậu, trong lúc tụi lính ngâm mình đến lạnh mặt, xanh môi mà chẳng được con tôm nào, đã thế còn bị thằng trưởng đồn mắng như tát nước vào mặt.
Tao gục gặc đầu :
- Muốn mò có tôm, trước hết để có tôm phải làm sạch mương như tao đã làm lúc nãy, tụi bây làm không đúng bài bản thì làm gì có chớ.
Đám lính lại nhảy xuống mương dọn sạch mấy chục liếp vườn cho tới khi trời tối. Cuối cùng tụi nó xúm nhau khiêng thằng đồn trưởng say mèm ra về, bỏ luôn cuộc càn.
Đêm đó, Tư Ruộng và Hai Lúa đều muốn biết tại sao tao mò có tôm, còn chúng thì không, tao vuốt râu cười khà :
- Tôm ấy là do tui bắt ngày hôm qua. Khi chúng đến, tui xách rọng tôm ra thả xuống rồi lại bắt lên, khó khăn gì nào. Nghe phong thanh tàu sắt Mỹ kéo tới để tóm cổ bằng được tên “Vi Xi” Ba Phi, tao đổ quạu :
- Muốn diệt tao à, không dễ đâu.
Sau mấy ngày suy nghĩ đến nát óc, tao cũng nghĩ ra cách để chống lại ý định của bọn chúng. Tao liền rủ thằng Đậu đi thẳng tới lò rèn quen trong xóm, nhờ ông chủ rèn nối lại mười lưỡi cưa sắt thật dài. Vốn rất nể nang tao, ông thợ rèn hì hục làm gấp mà không hỏi han gì hết.
Cuối cùng, số lưỡi cưa sắt được nối xong. Tao bèn biểu thằng Đậu phụ tao một tay mang số lưỡi cưa ra sông Ông Đốc. Hai ông cháu tao lại è ạch chèo xuồng chở mớ cưa sắt đi. Tới nơi, tao chỉ cách cho thằng Đậu làm, mang lưỡi cưa sắt ra căng xéo ngang sông Đốc, khúc quẹo vàm Rạch Lùm.
- Nhớ day hướng răng lưỡi cưa ra mé biển đấy. – Tao dặn thêm thằng Đậu.
Cứ thế, ông cháu tao tiếp tục căng cho hết mấy lưỡi cưa còn lại, mỗi lưỡi cách nhau mười thước ngập dưới mặt nước độ một gang tay. Như vậy, trận địa đã được bố trí xong, dài đâu khoảng một trăm thước. Dưới sông đã xong, giờ lo chuyện trên bờ.
Tao với thằng Đậu đi thu lượm hết những mảnh lưới rách trong làng, và cắt một đống dây chuối khô đem về. Sau đó, ông cháu tao mang lưới rách và dây chuối khô ra cột khắp trên các ngọn cây cao ở hai bên bờ sông. Còn lại mấy khoảng đất trống, tao dùng mớ tầm vông vạt nhọn, cắm nhô lên dày đặc khắp nơi.Sáng hôm sau, tao dẫn thằng Đậu ra bờ sông tìm một địa điểm an toàn để núp và chờ đợi. Mặt trời vừa nhô lên cỡ một sào, thì bọn Mỹ từ ngoài hạm đội, cho mười chiếc tàu sắt chở một tiểu đoàn, súng cầm tay lăm lăm sẵn sàng nhả đạn vào hai bên bờ. Chúng rú hết ga tiến thẳng về phía sông Đốc. Tới ngã ba Vàm, chúng cho tàu quẹo ngay vào. Tao nhổm dậy, căng mắt ra nhìn. Một tiếng kêu rởn tóc gáy, chiếc tàu sắt của Mỹ bị lưỡi cưa của tao tiện ngọt xớt phần dưới nước chừng một gang tay, chiếc tàu rung lên dữ dội, tuy nhiên nó vẫn còn trớn lao vút tới trước như tên bắn. Đến lúc hết trớn, tàu từ từ chạy chậm lại, còn lại khung thành tàu phía trên lỡ trớn chạy tới được vài chục thước thì chìm dần, bọn lính lọt hết xuống sông, lội bì bõm như chuột mắc nước. Rồi chiếc thứ hai, thứ ba... đến chiếc thứ mười cùng chung số phận.Nhìn cảnh bọn chúng nháo nhào mà chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, hai ông cháu tao núp trong lùm cười đến suýt nữa là bể bụng. Kể từ khi tao và thằng Đậu mang được con trăn gấm từ miệng đìa về nhà đắp thuốc, lại là vết thương do chà gạc nai đâm phải, con trăn đã bình phục trở lại. Nó có thể tự mình đi kiếm ăn nhưng thường thì nó ở nhà nằm khoanh trước chòi, hoặc đeo lên cháng ba của cây bần to ở cạnh đìa cá. Nó ít khi ra ngoài, cũng ít khi đi xa như mọi khi, làm như lần tham ăn nai ấy đến nỗi phải mang thương tích đầy mình đã khiến nó nhớ đời.
Ngó bộ con trăn ốm đi rất nhiều, do thằng Đậu không thể cung cấp thức ăn đầy đủ cho nó được.
Sức ăn của nó mỗi ngày trên dưới mười ký lô chớ chẳng chơi đâu. Mà thằng Đậu thì còn bận trăm công ngàn việc.
Cũng như mọi khi, tối nay, trước lúc đi ngủ, thằng Đậu đã xem kỹ con trăm gấm đang nằm khoanh một đống lù lù trước cửa. Nhưng khi gà gáy hiệp hai, thằng Đậu thức dậy thì không thấy con trăn đâu cả.
- Hừm ! Chắc nó lại giở mửng cũ ra ngoài kiếm ăn rồi.
Thằng Đậu nghĩ vậy và trở vô ngủ tiếp. Bỗng, bên ngoài có tiếng người lao xao, rồi Hai Lúa cầm đuốc băng vườn lội qua.
- Lạ quá đi, vợ tui thức giấc nửa đêm, đi ra sau hè rồi không thấy vô nữa.
Đang ngủ, Ba Phi tao ngồi bật dậy, hỏi thằng Đậu: - Con trăn gấm đâu?
- Con cũng không biết nữa nội à. Lúc tối nó nằm trước cửa, nhưng giờ đã đi mất tiêu rồi.
Ba Phi tao đổ mồ hôi hột, chạy vào trong lấy cây mây trên hai trăm tuổi rồi giục Hai Lúa:
- Anh Hai quơ đuốc sáng rồi theo tui ra vườn.
Không hiểu chuyện gì, nhưng thằng Đậu cũng lót tót chạy theo.
Tao vừa đi vừa quơ cây mây tìm kiếm. Cuối cùng, tao phát hiện ra con trăn gấm đang há miệng, rướn cổ nuốt... thím Hai Lúa, nhưng lại nuốt từ chân lên, nên nửa người của thím với hai cánh tay vẫn còn đang chống dưới đất, có lẽ sợ quá nên thím hai đã bị á khẩu. Còn Hai Lúa, khi thấy vợ mình bị trăn nuốt thì chỉ la lên được một tiếng rồi té xỉu.
Tao hào hển nói với thím Hai Lúa:
- Chị Hai bình tĩnh nghen, tui sẽ có cách cứu chị ngay.
Tao vừa nói vừa rút cây mác mây thọc vào miệng con trăn. Sau đó tao cố hết sức chống cây mây lên, đẩy cho miệng con trăn gấm há miệng to ra. Vừa đẩy, tao vừa lẩm nhẩm như đọc thần chú:
- Dài ra, nữa... nữa...
Cây mây như có sức mạnh thần kỳ, nó đẩy được miệng con trăn gấm từ từ há rộng, chẳng chút chấn chừ, tao vội nắm lấy hai cánh tay của thím Hai Lúa đang chới với một cách tuyệt vọng, kéo thật mạnh. Cả người thím Hai vụt khỏi miệng con trăn.
Hụt mất con mồi, bây giờ lại mắc cây mây, con trăn tức giận thở khì khì mấy tiếng rồi phóng chạy vào rừng mất dạng. Mấy hôm nay, Hai Lúa cứ nghe thằng Út của mình nói mãi về ông thầy bói hổng biết từ đâu tới coi tướng, coi tay hay hết biết luôn. Từ khi ông ta tới, lối xóm coi đông nghẹt.
- Ba biết hông. - Thằng Út huyên thuyên - Ngay cả ông hội đồng dữ tợn thấy mà vẫn phải sợ ổng. Cả tuần nay, ông ra rước ổng về cơm nước, trà rượu hẳn hoi với tiền công lên tới hàng trăm đồng chỉ để coi tiền vận, hậu vận gia đình ông ta. Ổng nói ông hội có nhiều vợ lẽ, con rơi nên gia đạo bất an, nếu không tích đức như đem của cải chia sớt cho người nghèo, giảm thuế ruộng, thuế đất thì sau này cuộc đời sẽ khốn khổ, hổng chừng lại bị tù đày.
- Hừ ! Nói vậy tao nói cũng được. - Hai Lúa xua tay.
Thằng Út cãi lại : - Tại ba không tin thôi, chứ còn nhiều chuyện lạ nữa kìa. Như chuyện chú Tư, ổng coi tay, coi tướng một lát rồi nói : Bàn tay chú có tài lộc đang chờ, nhưng ngặt tuổi kỵ màu đỏ, màu đen. Nếu chú giải được nạn đó thì nên đi qua Rạch Ráng xin lỗi bà nhạc gia rồi rước vợ về cho yên gia đạo. Mượn luôn vài chục công đất đi mua lúa cày cấy liền tay cho tới Tết thì trong nhà chú lúa không dưới năm trăm giạ, gia đạo yên, tiền tài vô như nước. Còn việc kỵ màu đen, nếu bỏ đá gà, bài bạc, đánh đề thì xong tuốt.
Nghe thằng Út kể tới đó, Hai Lúa đòi đi xem mặt lão thầy bói. Nhưng khi vừa thấy Hai Lúa, ông thầy bói đã tái mặt. Còn Hai Lúa, nhìn lão thầy bói thấy râu giả, kiếng che mặt và gương mặt hao hao giống ai đó, Hai Lúa ra về thì thầy bói cũng nhổ neo đi mất.
Mấy năm sau, trong một lần có “rượu vào lời ra”, Hai Lúa chợt hỏi :
- Năm đó tại sao chú bỏ trốn ?
- Không trốn anh lật tẩy à ? - Ba Phi tao cười khà - Chuyện tui làm thầy bói thiệt tình tui có muốn đâu. Cũng bởi, tui thấy bà con mình mê bói toán, nên tui mới làm vậy với ý định hạn chế phần nào tệ nạn xã hội ở xứ mình thôi mà. Anh Hai nhớ đi, tui xủ quẻ cho họ mà tui lấy đồng nào không ? Lúc tui gặp anh, tui giận lắm vì bị anh phá ngang xương, nhưng nghĩ lại mới thấy chuyện anh tới là đúng lúc, chớ để tui hết bài, nói ẩu không chừng hậu quả ngược lại ý muốn của mình thì chết cha. Ở mãi trong rừng, làm bạn với khỉ, nai, rắn, rít cũng buồn. Một lần nọ, Ba Phi tao khăn gói ra tỉnh chơi.
Chân ướt chân ráo, lại nhiều năm làm anh nông dân miệt quê chính hiệu nên khi ra đến chợ Cà Mau, nhìn đường phố, nhà cửa được nâng lên cấp hai, cấp ba gì đó tao cứ như từ trên trời rơi xuống, lơ ngơ, láo ngáo mặt mũi bơ phờ ngơ ngác chẳng ra sao hết.
Đi bộ còn chả xong, vậy mà tao cũng học đòi thiên hạ, mượn cho bằng được chiếc xe đạp cà tàng dạo quanh phố phường. Giao xe cho tao, anh bạn quen còn dặn :
- Cẩn thận đấy. Gặp đèn đỏ thì dừng, đèn xanh thì chạy, đường ngược chiều nhớ dắt bộ, nếu không sẽ bị cảnh sát phạt đấy.
Phải thừa nhận một điều, Ba Phi tao rất thông minh, vừa nghe qua “câu thần chú” đi đường an toàn trên, tao đã thuộc ngay và dĩ nhiên tao nhất nhất tuân theo “câu thần chú” ấy. Thế nhưng, lúc đi ngang qua một ngã tư rộng thênh thang, gặp đèn đỏ, tao đang định dừng lại, bỗng thấy ai nấy cứ ào ào dọt qua, tao làm theo, chả ai phạt hết. Tao rủa thầm trong bụng:
: “Mồ tổ cha thằng bạn thân, bày đặt hù”. Lại thêm một ngã tư, hai ngã tư... đỏ xanh mặc tình, tao cứ dông tuốt. Ai dè, lần thứ ba, chưa hết phần đường thì bị cảnh sát đứng ở gần chỗ cột đèn thổi cái “toét” làm tao hết hồn thắng “rét” lại.
Tay cảnh sát kêu tao dắt xe lên lề :
- Ông có rành luật giao thông hôn ?
- Rành chứ. Rành sáu câu à nghen. – Tao lẹ miệng.
- Vậy sao tới ngã tư đèn đỏ mà ông còn chạy.
- Thì tui bắt chước dân ở đây mà. Bộ chú mày không thấy họ vượt đèn đỏ hả ?
Tay cảnh sát nuốt nước miếng :
- Thì tại tui không thấy nên họ mới làm ẩu. Nếu để tui thấy thì chắc chắn là tui không tha rồi, như trường hợp ông vừa rồi đó. À, mà này ! Ông dưới quê mới ra phải không ?
- Chú mày giỏi thiệt, biết tao ở quê mới ra. Phải, tui ở U Minh, tên Ba Phi nè.
- Ủa ! bác Ba ư ? – Tay cảnh sát kêu lên – Thôi được rồi, bác dắt xe đi đi. Kỳ kèo ở đây nữa, sếp tôi thấy tôi sẽ bị kỷ luật ngay.
Không chờ tay cảnh sát nhắc đến lần hai, tao đã phóng lên xe dọt lẹ. Dẫu sao tao cũng rất khoái chí về mình, giờ thì tao đã biết thế nào là “văn kỳ thanh, bất kiến kỳ hình”. “Ai làm gì mà khói lên trong hậu đất vậy cà ?” - Đứng sau hè, thấy khói lên trong hậu đất, tui lẩm bẩm như vậy rồi bỏ vô nhà. Mới bưng chén trà lên hớp một ngụm, thì thằng Sáu hào hển chạy qua kêu :
- Bác Ba ơi ! Ai đốt cháy Lung Tràm, rùa qua hậu đất bác lểnh nghểnh. Hai bác cháu mình ra ví bắt ít con, chiều rang muối nhậu lai rai chơi.
Nghe nói nhậu rùa rang muối, tui chép nước miếng, lật đật với cái bao bố rồi dông theo thằng Sáu liền. Hai bác cháu tui vừa ra khỏi mé vườn thì thấy từ phía Lung Tràm rùa bò qua thật nhanh. Chúng còn ở ngoài kia, nhưng dường như thấy tụi tui nên nghểnh cổ nhìn. Đi tới chút nữa, bỗng bầy rùa ấy chụm đầu ngay vào chúng tui mà khẹt lửa. Liền đó, mấy trái đạn ĐK.57 nổ ầm ầm trên đầu. Hai bác cháu tui phóng xuống mương, bươn chạy một bữa muốn phờ râu. Biết sao không ? Xe lội nước chớ rùa gì.
Sau đó không lâu, cũng thấy lửa cháy ven lung như vậy, cũng thằng Sáu hào hển qua, kêu :
- Bác Ba ơi ! Xe lội nước đốt sậy, càn qua tới hậu đất rồi kìa. Chạy trốn mau đi !
Hai bác cháu tui chạy một mạch qua tới Lung Bùn, chém vè cho tới chiều. Về chưa tới nhà, thì thằng Ba Lùn chặn lại rủ vô nhà nhậu thịt rùa rang luối. Nó bảo là hồi trưa nó đốt giang sậy ven Lung Tràm, bắt được vài chục con rùa. Nó còn nói có mấy con bò qua hậu đất tui, bắt không được. Nghe nói mà tui tiếc hùi hụi. Hồi trưa thấy bầy rùa bò đó mà tưởng đâu xe lội nước, bỏ chạy trốn. Thiệt tức !
Lại một lần sau nữa thấy lửa cháy giang sậy, cũng thằng Sáu chạy qua kêu :
- Bác Ba ơi ! Lần này đón bắt rùa thiệt đó !
Hai bác cháu tui cảnh giác, đứng núp trong bờ chuối nhìn ra. Tui thấy từ xa những chấm đen đang động đậy, nhích dần về phía mình. Thằng Sáu dợm chạy ra bắt. Tui nắm tay nó, kéo lại :
- Chết mẹ ! Xe lội nước !
Xe lội nước thiệt. Chúng căng thành hàng ngang chạy ngang qua. Hai bác cháu tui chạy một mạch qua Lung Bùn, chém vè vô đám nga. Hai đứa chia nhau hai chỗ. Trốn trong con lung này đầy sình lầy, xe lội nước khó lòng mà chạy vô được.
Tui nằm chờ co ro trong một lùm nga, nghe tiếng xe chạy rù rù êm tai làm cơn buồn ngủ kéo ghị sụp mí mắt xuống. Trong mơ mơ màng màng, tui nghe xa xa có tiếng lửa cháy, sậy nổ rốp rốp, gần gần có tiếng rùa bò qua sột soạt.
Trước mắt tui, chập chờn hình ảnh những còn rùa vừa bò ngang vừa ngóng cổ lên như nòng súng ĐK trên mui xe lội nước. Lại tốp rùa phía sau bò tới nữa, tới nữa. Rùa nhả lửa, khạc đạn ầm ầm, ì ì... Có một con bò đến bên chân tui, thở phì phò, phì phò... Tui cứ nằm im, nói thầm trong bụng : Kệ cha mày ! Đừng gạt tao chạy ra bắt để gặp xe lội nước nữa. Nhưng con rùa đó thật kỳ cục, cứ nhắm chân tui mà bò lên, mà thở phì phò nóng hổi. Hơi thở của nó hôi xăng tanh rình. Người ta nói không thèm bắt nó rồi mà cứ ủi ủi vào chân mãi. Tui nổi xung, tống cho nó một đạp thật mạnh. Con rùa văng bổng lên khỏi đọt nga, rớt ngửa ra giữa lung bùn một cái ùm, nước văng trắng dã. Tui giựt mình tỉnh dậy, vì bàn chân tui đau điếng. Đang ngồi xoa bóp, bỗng nghe ai đó bò xột xọt lại gần. Thằng Sáu ! Nó đến sát bên tai tui, thì thào :
- Chết rồi bác Ba ơi ! Tính sao bây giờ ? Có một chiếc xe lội nước đang bò vô chỗ này, bỗng nhiên nó văng bắn, lộn nhào ra giữa lung. Nó còn nằm ngửa bơi bơi như hai sợi dây xích lên trời như hai con cuốn chiếu lật ngược vậy đó. Hồi đó, ở vùng Lung Tràm này, tao luôn nổi tiếng chúa trùm trường gà. Đi tới đâu, thấy ai có nuôi gà nòi rặt là tao tìm cách mua hết cho bằng được, có khi còn khăn gói chèo chống nhiều ngày đường qua tận bên kinh Thứ Mười Một - Rạch Giá để lựa gà. Nhà tao lúc đó mấy trăm bội với hàng mấy chục con gà tử mị. Đám đệ tử theo học nghề tao cũng không ít. Nội vườn trồng ngải để “tẩm quất” cho gà thôi cũng đã hơn chục công, mỗi ngày phải đào cả chục gánh vô gọt vỏ, mài mịn, ngâm với rượu để tắm cho gà. Gần Tết, dân miệt Sài Gòn, Long An, Châu Đốc... kéo vô mở trường gà đông hơn đi trẩy hội Nghinh Ông.
Tao phải cất một hơi hơn mấy chục lán trại làm nhà trọ, rồi chỉ cách cho cả xóm cùng làm. Tiền vô như nước, đếm tê cả các đầu ngón tay. Hồi đó, tao giàu có tiếng, thế mà bây giờ... bây thấy đó, tao... nghèo có kém ai đâu. Đầu đuôi gốc ngọn cũng vì mấy con gà, không ở tù đã là may mắn lắm rồi.
“Vỏ quýt dày có móng tay nhọn” mà. Tao chỉ là dân trùm miệt giồng, còn họ trùm miệt chợ thì chuyện sạt nghiệp là thường. Thật ra, tao cũng có những chiêu thật hiểm ác, vào trận, nếu gà của đối phương bị gà tao đá trầy sơ thì chỉ trong vòng chưa tàn cây nhang đã ngã ra giãy đành đạch, chết tại chỗ.
- Gà bác thuộc giống gà gì mà ghê vậy ?
- Cũng là gà nòi thường thôi, có điều trước khi cáp độ, tao lấy nọc rắn hổ thoa vô cựa gà.
Bởi vậy, tao bị tay thầy gà miệt Sài Gòn xuống cáp độ lớn tới mức phải bán hết mấy chục mẫu ruộng và trên chục công vườn, cầm luôn hai bầy trâu để ăn thua. Lần ấy, gà hai bên đá đến nước thứ ba rồi mà gà tao vẫn chưa hạ được gà người ta. Đã vậy, gà người ta càng đá càng hăng, còn gà của mình càng lúc càng xuống sức. Hai bên còn đang giằng co thì du kích xã xuống tới. Bị bao vây bất ngờ, tụi tao bỏ của chạy lấy người.
- Trời ! Tiếc quá nội hén. - Thằng Đậu chặc lưỡi tiếc rẻ.
- Tiếc gì chứ. Tối ngày cứ ba cái cờ bạc, số đề, đá gà... thì không bao giờ khá được đâu. Nai là loại quý hiếm nhưng nói thiệt, nai nhiều lúc nó phá quá mình cũng đổ quạu. Ai đời, mạ non có bao nhiêu nó cũng kéo tới ních sạch bách, cứ như vậy hoài thử hỏi mùa tới lấy lúa đâu mà cấy.
Vậy mà bữa nọ, tao đi rừng thấy một con nai mẹ bị trăn quấn chết, còn con nai con đang rúc đầu vô bú mẹ, bỏ không nỡ nên tao bắt nó đem về nuôi, lớn bộn.
Năm đó trúng mùa, trâu thì rất hiếm, kinh rạch thì cạn queo làm sao lôi lúa cho xiết. Không biết tính cách nào, tao với bả nằm đêm suy nghĩ. Cuối cùng, tao nghĩ ra một kế, sáng ra tao đốn tre làm cộ. Xong đâu đấy, tao bắt con nai tơ của nhà tao thay trâu kéo cộ. Kéo đâu được mấy ngày đêm, coi bộ nó ngán hay sao, nó bỏ vô rừng kêu một bầy nai độ chừng trên dưới vài trăm con về phụ nó. Lúc ấy, có người kéo lại không có cộ, chợt thấy bộ gạc trên đầu nó, tao liền lấy bó lúa máng lên. Mỗi con có thể mang khoảng mười bó. Cộ lúa sau cùng về tới nhà cũng vừa lúc đón giao thừa. Thiệt là may, nếu không có bầy nai, tao với bác Ba gái mày có nước khóc... tiếng Mọi. Đúng là cứu vật, vật trả ơn. Mùa hạn năm đó, tui quảy gùi, vác mác, lội rừng ăn mật ong. Đi từ suốt sáng cho tới trưa mà vẫn chưa cạo được ổ nào. Ong đóng kèo bạ thì chẳng có bao nhiêu, còn đóng kèo gác toàn là loại mới ốp lưỡi mèo, mật mới tráng ống. Buồn tình, tui mới lột gùi, để mác với dao tre một bên, lấy tấm vải nhựa ra trải dựa gốc tràm, nằm ngủ một giấc. Tui nằm tréo ngoảy, chân này gác xiên lên chân kia. Lúc nghe nắng nóng nóng bên mang tai, tui mới giật mình thức dậy.
Cũng còn nằm nguyên tư thế cũ, tui móc gói thuốc ra vấn hút. Đang lúc nhả khói, phun mây phì phèo, tui bỗng nghe ở đâu đây có tiếng bầy ong mật vỗ cánh rì rào. Tui ngó dáo dác, định ngồi dậy đi tìm. Nhưng chợt nhìn xuống cái chân tréo ngoảy của mình thì... trời đất ! Ổ ong đang đóng dưới bụng ống chân tui. Thấy mình ngủ nằm tréo ngoảy, nó tưởng đâu cái kèo mà áp lại đóng.
“Mày đem nạp mạng, sẵn đây tao cạo luôn”. Nghĩ vậy, nên tui hút mạnh mấy hơi thuốc, phà khói vào tổ ong. Bị khói thuốc Gò Vấp cay mắt, bầy ong bỏ ổ, bay tán loạn. Tui với lấy cây dao tre để bên cạnh, xắn lấy tàn ong bỏ đi, tấm tàn lớn bằng cái sàng vậy. Còn lại khúc mức, tui xeo thêm mấy nhát dao tre nữa, nó rớt xuống tấm vải nhựa cái đụi, một khối mật vàng óng bằng trái dừa khô nằm trưu trứu trên tấm vải nhựa.Bữa nọ, bác Ba gái bây bả thèm mắm tép, vì thế bả kêu tao đi chiều về mần ít nắm, sẵn gởi cho Hai Lúa một mớ nhậu chơi. Làm theo lời bả, hai ông cháu tao chống xuồng ra sông cái, rà tới rà lui một hồi, tao tấp xuồng vô bờ rồi quăng chài, cái chài tròn lủm thiệt là vừa mắt.
Quăng xong, ông cháu tao ngồi chờ, nhưng lạ quá, cái chài không muốn chìm.
Ngồi chờ đến tàn điếu thuốc, mà cái chài cứ nhồi lên, chìm xuống như cặp bè gặp sóng không bằng. Tức mình nên tao biểu thằng Đậu phóng xuống mò thử xem sao. Loáng sau, thằng Đậu đã trồi lên, nó thở khì :
- Chài không mắc gốc đâu nội ơi. Tại nó chụp đúng bầy cá đông nghẹt nên nó không chìm được đó thôi.
Kiếm tép lại gặp cá, nhưng bỏ cá thì uổng, ông cháu tao đành hì hục kéo cái chài đầy cá lên xuồng, vừa vặn nước liếm be. Đẩy được chiếc xuồng về đến xóm thì đã quá trưa, tao quyết định đưa chài lẫn cá lên giàn phơi luôn, chớ cá chốt gai ngạnh thấy phát ớn, ai đâu mà gỡ cho nổi.
Phơi luôn tới ngày hôm sau, ông cháu tao lấy chài xuống gỡ được hơn chục thúng cá khô. Tổng cộng là mười hai ngàn lẻ hai con cả thảy. Bác Ba gái bây kêu thằng Đậu cuốn bồ, vô cá để làm phân rải cho mùa dưa hấu tới.
- Nè, bác Ba ! Hổng lẽ bác đếm từng con cá chốt sao mà bác biết nó có mười hai ngàn lẻ hai con ?
- Trời đất ! Thứ đồ cá làm phân, ai hơi sức đâu để đếm. Tại vì cái chài của tao có mười hai ngàn lẻ hai lỗ, mỗi lỗ dính một con, vậy có phải mười hai ngàn lẻ hai con không hả ?Ông Tư khẽ đưa tay vuốt chòm râu bạc đang bung trắng trước ngực. Ông say sưa kể tiếp chuyện cái “sọ đầu cá trê” của bác Ba Phi cho con cháu nghe. Cái búi tóc sau ót của ông từng lúc cứ như nhúc nhích, nhúc nhích :
- Nè... tụi con ngồi yên, đừng chồm tới nữa, để ông kể nữa cho nghe. Nhà bác Ba hồi đó có nuôi bầy heo nái... Ờ... ờ... chuyện này mấy con nghe chưa? Số là hôm nọ, tới ngày bán đàn heo rồi, mà bầy heo đi đâu chẳng thấy héo lánh về. Bà con lối xóm tới bắt heo con, đứng chờ đông nghẹt, chật cả nhà. Sốt ruột quá, bác Ba lội đi lùng kiếm khắp vườn mà chẳng thấy.
Chắc là bị cọp ăn hết rồi ! Bác ba thất vọng than thở, vừa lê từng bước nặng nhọc trở về nhà.
Vừa tới sàn trước, bác giật mình thấy vật gì cứ làm nhúc nhích, nhúc nhích cái sọ đầu con cá trê trông hình như cái sọ đầu muốn “bò” đi mà “bò” không được. Trời đất! Lại quỷ ma ám ảnh nữa rồi, hay là...
Bà con đứng chờ bắt heo trong nhà nghe tiếng bác Ba kêu la, liền chạy ra. Một tốp đứng cầm cây, dao mác vây quanh chực sẵn. Số bà con còn lại thì ráp nhau cùng bác khiêng lật ngược sọ đầu cá trê lên. Hổng ngờ bầy heo con từ trong vù chạy ra. Con heo nái mẹ vú lòng thòng cũng chạy vụt ra theo.
Mọi người mới bật ngửa, cười ồ. Thì ra lúc nãy, heo nái mẹ dẫn đàn heo đến sân lăn ủi tìm cái ăn, nhưng nó ủi phá thế nào làm sọ đầu cá trê của bác Ba lật úp lại nhốt gọn lỏn bầy heo, cả mẹ lẫn con vào bên trong.
Kể tới đây, ông Tư đưa tay lên nắn nắn sửa lại cái búi tóc sau ót. Ông cười hề hề :
- Cái sọ đầu con cá trê của bác Ba thời đó bự cỡ vậy lận đó, các con!Hồi mới khai phá vùng này, khỉ nhiều vô kể. Mỗi bầy đông tới hàng trăm con, con lớn bằng đứa trẻ lên bốn, lên năm. Chúng phá ác lắm. Tui trồng được thứ gì là nó vặt trọi thứ đó. Năm nọ, tui trồng rẫy khoai rộng lắm. Tới chừng khoai có củ, khỉ móc ăn sạch sành sanh. Tức mình quá, tui tìm kế trị chúng một trận cho tởn.
Suy nghĩ hoài mà chưa có cách, giống khỉ khôn có hạng, đâu phải dễ dàng gì gạt được nó. Một hôm, nghĩ ra một kế. Cứ mỗi lần đi làm ruộng là nó bu lại ngồi trên đọt tràm dòm ngó. Tui chợt hiểu: À ! Đám này là chúa bắt chước. Vậy là tới bờ, tui kéo xuồng lên, múc nước trong xuồng uống rồi rửa mặt. Nước trong xuồng tui pha mật ong ngọt lịm. Khi về, tui lội bộ, giả bộ bỏ quên xuồng. Vắng người, bọn khỉ xuống vừa uống vừa tắm đã đời
. Cầm đầu bầy có một con khỉ đột, đứng tới ngực. Nó khôn lắm, mấy lần đầu, nó đâu có chịu xuống. Thấy bầy khỉ con ăn, tắm đã đời, nó bèn mon men xuống làm thử; thấy êm re hổng có sao hết, vậy là nó vô khâu.
Tui mới làm cái bẫy trong xuồng, con nào nặng tới năm mươi ký mới bị sập. Cho nên, mấy con khỉ con bò qua đâu có sao, còn nó nhào xuống thì bẫy sập. Bắt được nó về, tui đâu cho ở không, tui bắt nó đi phát ruộng. Cũng phảng, cù nèo đàng hoàng. Nó phát giỏi lắm, tui rồi một công thì nó cũng xong một công.
- Vậy, đám khỉ con đâu hết, bác Ba ? – Có người hỏi.
- Ờ, thấy chúa tể bị lao xiềng, lại bắt làm ruộng, lũ nhỏ tởn ông tởn cha nó, chừng nào mới dám tới, dám quậy nữa. Nói cho ngay, hồi đó khỉ chỉ có bắt chước thôi, chớ tay chân đâu có khều móc, chụp giật như bây giờ. Tụi bây biết tại sao không ?
Thấy lớp trẻ ngơ ngác, bác Ba Phi cười :
- Thì, tại nó tắm ba cái mật ong mà tao gạt chúng đó. Lâu ngày dài tháng, mật dính vô lông đi tới đâu kiến bu theo tới đó, ngồi đâu có yên, chúng quào móc riết thành tật, tới bây giờ làm sao sửa được. Lần này, tao lại thu được một đầu đạn to tướng, thay vì nộp cho công xưởng như mọi khi thì ông cháu tao lại hì hục kéo tuốt về nhà để ngoài vườn.
Thấy thằng Đậu có vẻ thắc mắc, tao giải thích :
- Ậy ! Là vậy con ạ. Nội sẽ sử dụng đầu đạn này đánh tên quận trưởng vùng này một trận tan tác luôn.
- Đánh ! Đánh bằng cách nào ? Mình đâu có pháo để bắn, mà đầu đạn thì đã mất ngòi nổ rồi.
- Vậy mà, nội làm được đó nghen. Con cứ chờ đi.
Sau đó, tao đi vô nhà lấy thùng đồ nghề ra lui cui làm cả buổi, cuối cùng thì tao cũng đã làm xong một kíp nổ kiểu đầu gạt, thứ kíp nổ cải biên này chỉ yêu cầu có độ giật là trật mấu nổ ngay.
Tao lại lấy thêm một sợi dây cáp thật dài, xỏ vào cái khoen làm sẵn trong đầu đạn rồi tìm một cây tràm thật cao leo lên cột một đầu dây trên đó.
Đền chiều tối, tao cầm đầu dây này, thằng Đậu cầm đầu dây kia xả ra. Cứ thế cả hai đi về phía sau chi khu hơn năm cây số. Khi đã thấy ánh đèn sáng rực, ông cháu tao mới dừng lại. Đó chính là mục tiêu sẽ nhận trái pháo của tao, chỉ cần kéo sợi dây căng lên làm đường ray cho quả pháo thì nó sẽ “xung trận” ngay.
Hiểu ý tao, thằng Đậu liền phụ tao.
Hì hục mãi, ông cháu tao mới kéo căng sợi cây cáp lên được, sợi dây cột trên đọt tràm cao chạy kéo xuống thành độ dốc vừa đủ.
Đâu đó xong xuôi, tao ra lệnh thằng Đậu phát pháo, bằng cách giật mạnh sợi dây cáp, từ trên đọt tràm cao vút, đầu đạn theo dây tuột xuống càng lúc càng nhanh hơn. Sau cùng có trớn, đầu đạn phóng nhanh như gió, vùn vụt về phía dinh tên quận trưởng. Chờ đến khi đầu đạn tuột đến ngọn đèn, tao liền buông sợi dây, cho quả pháo rơi ngay xuống.
“Rầm”. Một tiếng nổ long trời lở đất vang lên, kèm theo một vùng lửa sáng rực cả góc trời khói đen mù mịt.
Hai ông cháu tao từ đằng xa cũng bị hất vô bụi, lồm cồm bò dậy, hai ông cháu giông tuốt về nhà đánh một giấc tới sáng.Không thể rải giống trên cạn được, tao bèn nghĩ ra cách đắp bờ bao chứa nước để gieo ngầm mới xong.
Thế là, hai ông cháu tao bắt đầu làm ngay. Hôm sau, trời vừa tờ mờ sáng, tao và thằng Đậu vác cây cối và cuốc ra đồng, cây để cất chòi giữ mạ, cuốc để dùng vào việc đắp bờ bao phòng trời mưa to giồng bị trôi đi, đắp xong thì trời đã tối mịt.
Đêm hôm đó, quả đúng như sự lo lắng của tao, một trận mưa kinh hồn đổ xuống. Hai ông cháu tao lần mò ra xem đám mạ thế nào, bờ bao có bị bể không, nào dè, đám mạ đã biến mất cùng khu bờ bao. Chừng xem kỹ lại thì giồng bờ bao lại nằm chình ình ở sau chòi.
Và cứ thế, đám mạ lúc thì ở trước nhà, lúc sau nhà, khiến hai ông cháu chẳng hiểu ra sao cả.
- Hừm ! - Đổ quạu, tạo chửi đổng - Cả trời đất cũng giỡn mặt với Ba Phi này sao chứ ?
Chợt, thằng Đậu chỉ tay xuống gốc chòi :
- Nội ! Xem kìa !
A ! Thì ra cái chòi nó quay chứ không phải đám mạ và mặt trời quay. Thấy lạ, hai ông cháu tao nhảy ra khỏi chòi. Xem xét một hồi lâu, tao vỗ tay cười ngất :
- Đậu ơi ! Nội hiểu rồi. Té ra, hai ông cháu mình lụp chụp nên chẳng coi xét kỹ đã cất cái chòi trên lưng con càng đước khổng lồ mà cứ tưởng là mô đất cao.
Hai ông cháu tao khoái quá, nhảy lên chòi điều khiển con càng đước bò thẳng về nhà. Lại tới mùa gieo mạ, nông dân Lung Tràm lại lo lắng khôn nguôi vì bọn chim chuột phá đám mạ chịu đời không thấu. Nói tới chim chuột thì tao còn lạ gì, hồi nẳm, tao đã bị chúng chơi cho mấy vố xấc bấc xang bang cả lên.
Năm nay có khác, tao đã nghĩ ra một cách nắm chắc phần thắng:
- Nè, dượng Ba ! – Hai Lúa vỗ vai tao kỳ kèo - Phải chi cho mọi người biết là làm sao đám mạ của dượng lại không bị chim chuột phá đi chớ !
Thấy chẳng cần phải giữ bí mật, tao ôn tồn kể ngay :
- Khi tui hứa với mọi người là đảm bảo đủ mạ cho hai người cấy thì tui cũng ngâm giống như cô bác lối xóm đấy thôi, nhưng có điều lúc sạ mạ, tui có phần không giống mọi khi, như cô bác gieo mạ ban ngày thì tui làm ban đêm. Gieo về đêm thì tránh được lũ chim. Nó đã đi ngủ cả thì làm sao ăn giống của mình được.
- Thế còn bầy le le ? – Hai Lúa hỏi tới.
- Có khó gì đâu. – Tao đủng đỉnh – Tui bỏ tiền ra mua mấy thiên vọp, loại vọp nhứt, mỗi con trên ký.
Ban ngày, tui biểu bầy trẻ đổ ra sân phơi cho nó nóng vỏ, tối đổ xuống xuồng chở ra đám mạ rải đều khắp nơi. Vọp bị phơi nắng cả ngày, gặp nước mát há miệng ra uống. Khi đó thì đám le le thò đầu xuống mò lúa giống trúng miệng vọp bị kẹp lại, hoảng hồn bay lên lôi theo cả con vọp, bay chẳng bao xa lại rớt lạch bạch xuống đất. Lúc đó, tui tha hồ mà chống xuồng đi vớt le le mang ra chợ Lần đó địch mở chiến dịch “Nhổ cỏ U Minh”, bên ta rút quân sâu vô rừng ém và lên sa bàn tổ chức phản công. Đang tranh luận gay cấn thì được tin tình báo vừa bắt được một “do thám”.
Ra gã do thám ấy là... bác Ba Phi tao đây.
Bên ngoài xăm xăm bước vô, bất ngờ tao quay lại. Nhận ra tao, mấy đứa đó giật mình la lớn :
- Trời ! Bác Ba ! Bác đi đâu vậy ? Bộ bác không biết bọn địch đang đưa mấy tiểu đoàn đi càn sao ? Kỳ này, bọn chúng nhất định nhổ cỏ U Minh, bác đi vậy lỡ bị địch phục kích thì sao ?
Tao cười hề hề, nói :
- Tao vô đây báo cho tụi bây một tin mừng.
Thấy mấy đứa cứ nhấp nhổm, mặt lộ vẻ sốt ruột, tao bèn vòng vo tam quốc.
... Hồi nẳm tao đi rừng, gặp ổ trăn đang ấp. Ấp xong, trăn con trăn mẹ kéo đi ráo, chỉ còn sót lại một trứng. Tưởng lép, tao mang về định luộc nhậu. Hổng dè chưa kịp luộc nhậu, trứng lại nở ra con trăn, một con trăn đẹt ngắt. Thằng cháu nội tao cưng lắm, nó bắt chuột cho ăn đã đời. Bữa nọ, do no nên trăn ăn không hết chuột. Đêm đó, chuột khoét chuồng chun ra, trăn theo đó bò đi mất. Kiếm giáp vòng không có, thằng cháu tao nó khóc đến bỏ ăn, sưng cả mắt luôn. Thấy vậy, tao định tìm bắt cho nó con trăn khác, nào ngờ con trăn trở về. Nuôi thêm hai năm, con trăn lớn bộn. Thằng cháu tao đã gặp may, vì trăn là trăn cái nên một năm, vào lối rằm tháng mười âm lịch, mùa trăn hội là trăn đực từ rừng U Minh bò về. Ôi thôi, không đếm xuể. Thằng cháu tao chỉ việc bắt trăn bỏ vào bao chở ra chợ bán, nó giàu lên cũng nhờ con trăn này.
- Bác Ba à ! Bác kể dông dài làm chi, giặc đánh rần rần, tụi cháu lo muốn hụt hơi luôn đây này, còn tâm trí đâu mà nghe bác kể chuyện.
Tao làm mặt giận :
- Hổng nghe thì thôi, nhưng con trăn của tao nó có liên quan đến trận càn này. Tao vô đây báo cho tụi bây ra ngoải chở súng về, nhiều lắm đa.
- Bác ba giỡn hoài.
- Vụ này, tao nói thiệt đó. Số là hồi hôm này, khi tụi lính kéo vô tới nơi rủ tao nhậu tới quắc cần câu. Xong, cả đám lăn ra ngủ như chết. Hừng đông, tao tính tới sở chỉ huy của nó dò la tin tức. Ai dè tới nơi không thấy thằng nào ráo, có điều lạ là súng ống còn nguyên ra đó, tao gom lại mấy đống luôn. Đi loanh quanh một hồi, tao thấy con trăn nằm chình ình ra đó. Thấy miệng nó còn ló chiếc giày bốt, chừng đó tao mới hiểu hai tiểu đoàn lính đi càn đã làm mồi cho trăn. Thôi, tụi bây bảo anh em chống xuồng ra chở vũ khí mang về mà xài. Đứa nào không tin thì cứ hỏi bả thì rõ. Ba khía làm mắm, được chế biến với đủ liều lượng, gia vị, rau răm, quế, khế, thơm, chuối chát ăn với cơm nguội. Số dách !
Ở U Minh, ba khía có rất nhiều, tới mùa ba khía rộ, dân trong vùng và các nơi đổ về soi ba khía để làm mắm, nhưng bắt ba khía bằng cách đi soi, thộp cổ từng con bỏ vào thùng thiếc để đem về làm ra món mắm đặc sản mà đã có đông đảo dân mình ghiền, là xưa lơ xưa lắc rồi. Năm nay, tao có cách khác rồi vừa nhàn hạ, vừa nhiều ba khía và đảm bảo làm mắm ngay.
Nghe tao tuyên bố thế, chẳng mấy ai tin, tao đành phải “nói có sách, mách có chứng”.
Trời chập tối, tao đã kêu sấp nhỏ chuẩn bị bảy chiếc xuồng.
Thằng Đậu ngạc nhiên :
- Mình chỉ có ba ông cháu, một chiếc xuồng đã đủ, ông nội kêu chuẩn bị tới bảy chiếc để làm gì vậy ?
Tao cười tỉnh rụi :
- “Thiên cơ bất khả lậu”. Cứ làm theo ông nội chỉ, đâu sẽ vào đấy.
Tao còn bảo chúng nó đổ nước lưng lưng hai chiếc xuồng, năm chiếc xuồng còn lại đổ muối hột, muối dự trữ để sẵn trong thúng.
Chờ cho đỏ đèn, mấy ông cháu tao ì ạch đẩy hết xuồng ra vàm để hứng luồng ba khía từ trong rừng U Minh bò ra. Tao sắp xếp xuồng thứ tự đâu đó cả : Hai chiếc chứa nước đậu phía trước, kế tới năm chiếc xuồng muối.
Tao dặn thêm thằng Đậu :
- Có lớp ba khía nào bò lên thì xếp một lớp muối hột lên trên, lớp trên cùng gài bằng sóng lá dừa cho chặt, sau phủ lớp lá chuối là xong.
Thằng Đậu đốt đèn cho ba khía thấy đường bò về, còn con Mè bắc cầu cho ba khía leo lên xuồng.
Đèn được đốt lên, mấy ông cháu tao bò lên gò đất ngồi chờ. Hút tàn điếu thuốc rê, tao liền rút trong túi áo bà ba ra cái sừng trâu bóng lộn đưa lên miệng.
Tu và... tu và... tu và...
Thằng Đậu thắc mắc
- Ông nội thổi sừng trâu chi vậy ?
Tao rung đùi, trả lời :
- Gọi ba khía chứ chi.
Thằng Đậu cười ré lên :
- Úy trời ! Nào giờ mới biết cái vụ này. Ngộ quá ta !
Thổi sừng trâu một chập thì ngưng, tao lại vấn thuốc, chưa xong đã nghe tiếng thằng Đậu la :
- Trời ơi ! Ba khía về, nó leo lên xuồng nước. Ôi ! hằng hà sa số tận luôn.
Y như vậy, t
Link
https://cailuongmuseum.vn/75F0D1E0AbEh48C