Lớp tàu khu trục O và P là một lớp tàu khu trục được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc đặt hàng vào đầu Chiến tranh Thế giới thứ hai. Đặt hàng vào năm 1939, chúng là những con tàu đầu tiên trong Chương trình Tàu khu trục Khẩn cấp Chiến tranh, nên còn được gọi là Chi hạm đội Khẩn cấp 1 và Chi hạm đội Khẩn cấp 2 tương ứng. Chúng đã phục vụ hộ tống các đoàn tàu vận tải trong chiến tranh, và một số sau này được cải biến thành những tàu frigate nhanh chống tàu ngầm hạng hai trong những năm 1950.
Thiết kế
Thiết kế lớp tàu khu trục O và P được dựa trên lườn tàu và hệ thống động lực của lớp J dẫn trước, nhưng vểnh lên nhiều hơn phía trước để sửa chữa chất lượng đi biển kém của lớp J. Các con tàu này sử dụng Đồng hồ kíp nổ định thời cho máy tính kiểm soát hỏa lực góc cao.
Lớp O
Những chiếc lớp O được chế tạo thành hai nhóm, mỗi nhóm bốn chiếc. Nhóm thứ nhất trang bị pháo QF Mark IX trên các bệ góc thấp, vốn chỉ nâng được đến góc 40°, sau này được bổ sung thêm một khẩu pháo QF Mark V phòng không thay chỗ một dàn ống phóng ngư lôi. Nhóm thứ hai có pháo 4 inch trên các bệ góc cao, và được trang bị để hoạt động như những tàu rải mìn; chúng có thể được nhận diện bởi phần đuôi phẳng kiểu "đuôi hải ly" nơi mìn được thả. Khi mang theo mìn, chúng phải tháo dỡ tháp pháo "Y", các ống phóng ngư lôi và mìn sâu. Vũ khí phòng không được thiết kế gồm một dàn QF 2-pounder "pom pom" bốn nòng và hai khẩu đội súng máy Vickers 0,5 inch phòng không. Kiểu sau này tỏ ra đã lạc hậu, và được thay thế bằng pháo Oerlikon 20 mm khi đã sẵn có, với tổng cộng sáu khẩu nòng đơn.
Lớp P
Lớp P là sự lặp lại của lớp O, trang bị toàn bộ bằng pháo 4 inch trên bệ góc cao với một thiết kế tấm chắn mới cao, nên không đòi hỏi các con tàu phải tháo dỡ ống phóng ngư lôi để bổ sung vũ khí phòng không.
Lịch sử hoạt động
Mọi chiếc trong lớp O đã sống sót qua chiến tranh. Năm chiếc trong lớp đã tham gia Trận chiến biển Barents, nơi bị hư hại nặng. Sau trận này, chúng được tái trang bị với cột ăn-ten dạng lưới cao thay cho cột ăn-ten thông thường.
Những chiếc lớp P phục vụ chủ yếu tại chiến trường Địa Trung Hải, nơi bốn chiếc trong lớp bị mất.
Sau chiến tranh, Onslow, và được bán cho Hải quân Pakistan trong khi được bán cho Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ. , và được cải biến thành những tàu frigate nhanh chống tàu ngầm hạng hai trong những năm 1950, và phục vụ cho đến giữa những năm 1960. Những chiếc còn sống sót khác bị tháo dỡ vào những năm 1940, 50 và 60.
Những chiếc trong lớp
* = Soái hạm khu trục
† = Trang bị như tàu rải mìn
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp tàu khu trục O và P** là một lớp tàu khu trục được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc đặt hàng vào đầu Chiến tranh Thế giới thứ hai. Đặt hàng vào năm 1939,
phải|Sơ đồ mô tả lớp _Fubuki_ của Văn phòng Tình báo Hải quân Hoa Kỳ **Lớp tàu khu trục _Fubuki**_ (tiếng Nhật: 吹雪型駆逐艦-Fubukigata kuchikukan) là một lớp bao gồm hai mươi bốn tàu khu trục
**Lớp tàu khu trục Tribal**, còn được gọi là **lớp _Afridi**_, là một lớp tàu khu trục được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh, Canada và Australia ngay trước Chiến tranh Thế giới
nhỏ|300x300px| nhỏ|upright|Tàu khu trục , một chiếc thuộc của [[Hải quân Hoa Kỳ.]] **Tàu khu trục**, hay còn gọi là **khu trục hạm**, (tiếng Anh: _destroyer_) là một tàu chiến chạy nhanh và cơ động,
**HMS _Onslow_ (G98)** là một soái hạm khu trục dẫn đầu lớp tàu khu trục O được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào năm 1939 do Chiến tranh Thế giới thứ hai
**HMS _Opportune_ (G80)** là một tàu khu trục lớp O được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào năm 1939 do Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ. Sống sót qua cuộc
**HMS _Petard_ (G56)** là một tàu khu trục lớp P được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trong Chương trình Khẩn cấp của Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được đưa vào hoạt
**Lớp tàu tuần dương _Kirov_ (Đề án 26)** là một lớp gồm sáu tàu tuần dương được đóng vào cuối những năm 1930 của Hải quân Liên Xô. Sau hai con tàu đầu tiên, giáp
**HMS _Paladin_ (G69)** là một tàu khu trục lớp P được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trong Chương trình Khẩn cấp của Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được đưa vào hoạt
**HMS _Pakenham_ (G06)** là một tàu khu trục lớp P được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trong Chương trình Khẩn cấp của Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được đưa vào hoạt
**HMS _Panther_ (G41)** là một tàu khu trục lớp P được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trong Chương trình Khẩn cấp của Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được đưa vào hoạt
**HMS _Porcupine_ (G93)** là một tàu khu trục lớp P được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trong Chương trình Khẩn cấp của Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được đưa vào hoạt
**HMS _Onslaught_ (G04/D04)** là một tàu khu trục lớp O của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được chế tạo trong Chương trình Khẩn cấp trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nguyên được đặt
**HMS _Obedient_ (G48/D248)** là một tàu khu trục lớp O của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được chế tạo trong Chương trình Khẩn cấp trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được đưa vào
**HMS _Penn_ (Pennant G77)** là một tàu khu trục lớp P được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trong Chương trình Khẩn cấp của Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được đưa vào
**HMS _Oribi_ (G66)** là một tàu khu trục lớp O được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào năm 1939 do Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ. Sống sót qua cuộc
**HMS _Obdurate_ (G39)** là một tàu khu trục lớp O được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào năm 1939 do Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ. Sống sót qua cuộc
**HMS _Offa_ (G29)** là một tàu khu trục lớp O được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào năm 1939 do Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ. Sống sót qua cuộc
**HMS _Orwell_ (G98)** là một tàu khu trục lớp O được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào năm 1939 do Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ. Sống sót qua cuộc
**HMS _Pathfinder_ (G10)** là một tàu khu trục lớp P được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trong Chương trình Khẩn cấp của Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được đưa vào hoạt
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Invincible**_ bao gồm ba chiếc được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và được đưa ra hoạt động vào năm 1908 như những tàu chiến-tuần dương đầu tiên
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Indefatigable**_ là lớp tàu chiến-tuần dương thứ hai của Anh Quốc, đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh và Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới
**USS _Abel P. Upshur_ (DD-193)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai được
**USS _S. P. Lee_ (DD-310)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của
**USS _Richard P. Leary_ (DD-664)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**USS _O'Brien_ (DD-725)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải
**USS _Charles P. Cecil_ (DD/DDR-835)** là một tàu khu trục lớp _Gearing_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy
**HMS _Laforey_ (G99)** là một tàu khu trục lớp L được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó đã nhập biên chế và phục vụ trong Chiến tranh
**USS _Joseph P. Kennedy Jr._ (DD-850)** là một tàu khu trục lớp _Gearing_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến
**_Vasilefs Georgios_ (D14)** () là một tàu khu trục Hy Lạp, chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Hy Lạp và sau đó với Hải quân Đức
**Lớp tàu rải mìn _Abdiel**_ bao gồm sáu tàu rải mìn nhanh của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc đã hoạt động trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chúng đôi khi được biết đến
**USS _Whipple_ (DD- 217/AG-117)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh
**_Yura_** (tiếng Nhật: 由良) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Yura gần Kyoto của Nhật Bản. Nó
**USS _Anderson_ (DD-411)** là một tàu khu trục lớp _Sims_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân
**JDS _Amatsukaze_ (DDG-163) (tiếng Nhật: あまつかぜ (護衛艦)** là một tàu khu trục mang tên lửa có điều khiển (DDG) thuộc Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Đây cũng là tàu chiến đầu
**USS _Aulick_ (DD-569)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Hambleton_ (DD-455/DMS-20)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, cải biến thành
**USS _Collett_ (DD-730)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**Lớp tàu ngầm _Tambor**_ bao gồm mười hai tàu ngầm diesel-điện được Hải quân Hoa Kỳ đưa vào hoạt động ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng là những tàu ngầm hạm đội
**HMS _Lightning_ (G55)** là một tàu khu trục lớp L được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó đã nhập biên chế và phục vụ trong Chiến tranh
**_Takao_** (tiếng Nhật: 高雄) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc, được thiết kế cải tiến dựa
**HMS _Eclipse_ (H08)** là một tàu khu trục lớp E được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó đã phục vụ
**Tàu chiến lớp Osa** là tên gọi ký hiệu của NATO cho loại tàu chiến lớp tên lửa do Liên Xô có tên gọi chính là **Dự án 205 Tsunami** (Project 205 Tsunami). Phát triển
**Shikishima** (tiếng Nhật: しきしま) là lớp tàu tuần tra lớn nhất của Cảnh sát Biển Nhật Bản. Lớp này hiện có 2 tàu Shikishima (số hiệu PLH31) và Akitsushima (PLH32). Chữ P trong số hiệu
**USS _Thompson_ (DD-627/DMS-38)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, cải biến thành
**USS _Maddox_ (DD-731)**, là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải
**USS _Beale_ (DD-471/DDE-471)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Barry_ (DD-933)** là một tàu khu trục lớp _Forrest Sherman_ từng hoạt động cùng Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
**_Naka_** (tiếng Nhật: 那珂) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Sendai_. Tên của nó được đặt theo sông Naka tại tỉnh Tochigi và Ibaraki ở
**USS _Edsall_ (DD-219)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ vào đầu Chiến tranh