✨Lê Đức Anh
Lê Đức Anh (1 tháng 12 năm 1920 – 22 tháng 4 năm 2019), tên khai sinh là Lê Văn Giác, bí danh là Nguyễn Phú Hòa, Sáu Nam, là Chủ tịch nước thứ 4 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ 1992 – 1997. Trước đó ông từng là tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, quân hàm Đại tướng, từng là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam (1987 – 1991), Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (1986 – 1987).\\
Lê Đức Anh đóng vai trò quan trọng trong chiến tranh Việt Nam và chiến tranh biên giới Tây Nam. Trong chiến tranh biên giới Tây Nam, ông là một trong những tướng trực tiếp chỉ huy chiến trường và giành nhiều thắng lợi quan trọng cho Việt Nam.
Sau Đổi Mới năm 1986, ông chuyển sang công tác dân sự. Ngày 23 tháng 9 năm 1992, ông trở thành Chủ tịch nước thứ 5 của nước Việt Nam thống nhất. Ông đã để lại nhiều dấu ấn đối ngoại như bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ, thắt chặt lại mối quan hệ với các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp... từ thời chiến tranh Việt nam.
Nhiệm kỳ của ông có nhiều điểm nổi bật gồm việc ông là Nguyên thủ quốc gia Việt Nam đầu tiên kể từ khi thống nhất thực hiện chuyến công du đến Hoa Kỳ và cùng Thủ tướng Võ Văn Kiệt thuyết phục Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton dỡ bỏ lệnh cấm vận tại Việt Nam. Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN vào ngày 28 tháng 7 năm 1995 cũng trong nhiệm kỳ của ông.
Ngày 23 tháng 9 năm 1997, ông chính thức hết nhiệm kỳ Chủ tịch nước và người kế nhiệm ông là Trần Đức Lương.
Đầu đời
Ông nội Lê Đức Anh là Lê Thảng (6/11/1861 – 11/5/1939), quê quán tại Truồi, làng Bàn Môn, xã Lộc An, huyện Phú Lộc, thành phố Huế. Lê Quang Túy và bà Lê Thị Thoa có với nhau 13 người con, tất cả đều sinh ở làng Trừng Hà, xã Phú Gia, huyện Phú Vang, thành phố Huế, 4 người mất từ lúc còn nhỏ, còn 9 người, 2 trai và 7 gái. Lê Văn Giác là con thứ 7 trong 9 người con. Lê Hữu Độ, anh trai Lê Văn Giác, sau này là cán bộ phụ trách trại chăn nuôi của Bộ Công an Việt Nam. Lê Văn Giác có 3 người chị gái đã mất là Lê Thị Ngọc Tỷ, Lê Thị Kha, Lê Thị Hiệp và 2 em gái là bà Lê Thị Thể (làm nghề buôn bán ở thành phố Đà Nẵng) và bà Lê Thị Xoan (công tác tại Trường Trung cấp Y tế Huế, đã nghỉ hưu và hiện đang sống tại Huế).
Nhận xét về tính cách của ông, theo lời thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Lê Đức Anh là người rất khắt khe, nguyên tắc trong công việc; ít nói, lắng nghe cấp dưới một cách tập trung, chăm chú; ghét tính dối trá, cẩu thả, thiếu trách nhiệm. Theo Luật sư Cù Huy Hà Vũ (con trai cố nhà thơ Cù Huy Cận), Lê Đức Anh là người tiết kiệm và chân thành.
Sự nghiệp quân đội
Kháng chiến chống Pháp
Năm 1937, 17 tuổi, Lê Đức Anh bắt đầu tham gia các hoạt động cách mạng chống thực dân Pháp. Tháng 5 năm 1938, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Cũng trong năm 1980, ông được phong hàm từ Trung tướng lên Thượng tướng..
Tháng 12 năm 1986, Lê Đức Anh được cử giữ chức Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Sự nghiệp chính trị
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (1987-1991)
Sau đó, Lê Đức Anh tham gia chính trường và giữ nhiều chức vụ trong chính phủ. Từ ngày 16 tháng 2 năm 1987 đến 10 tháng 8 năm 1991, ông là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư thứ nhất Đảng ủy Quân sự Trung ương. Khi Bộ Chính trị họp đã thông qua kế hoạch điều chỉnh chiến lược và giảm quân số quân đội của ông, từ 1,5 triệu quân thường trực xuống còn 450.000 quân (từ 9 quân đoàn giảm xuống còn 4 quân đoàn), gánh nặng ngân sách quốc phòng được giải tỏa. Trong thời gian giữ chức vụ Bộ trưởng Quốc phòng, ông đã là 1 người có tiếng nói lớn trong hệ thống chính trị của Việt Nam.
Cuối tháng 2 năm 1987, trong cuộc họp Bộ Chính trị ở Nhà Con Rồng – Sở Chỉ huy của Bộ Quốc phòng tại Hoàng thành Thăng Long, Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã đề xuất thực hiện "phá thế bao vây cấm vận của Mỹ và bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, tìm cách gia nhập ASEAN"..
Năm 1989, sau sự kiện Sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu, ông cảnh báo về mối đe dọa được cho là phương Tây đang phá hoại Đảng Cộng sản Việt Nam, lập luận về việc quân đội tham gia nhiều hơn vào chính trị "vào thời điểm chủ nghĩa xã hội Việt Nam đang bị tấn công".
Ông là một trong số ít những cán bộ quân đội đã trải qua cả 4 chiến trường trong suốt 40 năm: Tham gia 9 năm kháng chiến chống Pháp, tham gia chỉ huy tại chiến trường miền Nam chống Mỹ trong 11 năm (1964 – 1975), chỉ huy chiến trường Campuchia trong 7 năm (1979 – 1986), tham gia chỉ huy chiến trường biên giới phía Bắc trong 3 năm (1986 – 1989).
Chủ tịch nước (1992-1997)
thumb|200x200px|Ông Lê Đức Anh thăm Trung Quốc, năm 1993 Năm 1991, Lê Đức Anh giữ chức vụ Thường trực Bộ chính trị. Năm 1992, ông được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam bầu vào chức vụ Chủ tịch nước. Ông cũng là Ủy viên BCH TƯ khóa IV – VIII, Ủy viên Bộ Chính trị khóa V – VIII, Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII; đại biểu Quốc hội khóa VI, VIII, IX và Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh. Vào ngày 23 tháng 9 năm 1992, ông là người kế nhiệm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công và do đó là Chủ tịch nước Việt Nam. Mặc dù vị trí này (theo phương Tây) chủ yếu mang tính biểu tượng, chức Chủ tịch nước trở nên quan trọng hơn nhiều trong nhiệm kỳ của ông. Ông giữ chức danh này cho đến khi được Trần Đức Lương thay thế vào ngày 24 tháng 9 năm 1997. Đại tướng Lê Đức Anh đã được ghi công với một số giải thưởng, bao gồm Huân chương Sao Vàng và Huân chương Hồ Chí Minh. Là người đã trải qua chiến tranh, thấu hiểu nỗi mất mát của nhân dân, ông đã hiện thực hóa bằng pháp lệnh trao tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
Trong cuốn sách của mình, tác giả Bolton cho rằng Lê Đức Anh được nhiều người coi (về mặt tư tưởng) là người bảo thủ nhất trong số 3 nhà lãnh đạo chính trị trong nhiệm kỳ của mình. và do đó thường không đồng ý với Lê Đức Anh. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười thì linh hoạt hơn về mặt tư tưởng và được coi là đại diện cho sự trung dung giữa Anh và Kiệt, nhưng dường như có xu hướng bảo thủ. Bolton cho rằng Lê Đức Anh phản đối những cải cách kinh tế mà ông cho là quá liều lĩnh của ông Kiệt. Năm 1991, Lê Đức Anh ủng hộ Đỗ Mười ứng cử cương vị lãnh đạo đảng để phản đối Võ Văn Kiệt. Cũng theo Bolton thì nhóm ủng hộ ông Kiệt sau đó đã lan truyền tin đồn về những hành vi xấu được cho là có liên quan đến Lê Đức Anh trong thời gian ông ở Campuchia. Năm 1997, Chủ tịch nước Lê Đức Anh bị xuất huyết não.
Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1997-2001)
Ông làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ tháng 12 năm 1997 đến tháng 4 năm 2001 thì chức vụ này bị bãi bỏ. Ông là người đã hỗ trợ cho Lê Khả Phiêu để ông này là Tổng bí thư.
Nghỉ hưu tới trước khi qua đời
Nghỉ hưu
Sau khi chức Cố vấn bị bãi bỏ, ông đã nghỉ hưu. Sau khi nghỉ hưu, ông sống ở nhà riêng của mình. Năm 2013, ông được trao huy hiệu 75 năm tuổi Đảng.. Trong lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống Quân khu 7 vào năm 2015, ông đã có mặt tham dự buổi lễ. Nhân dịp sinh nhật thứ 94, ông đã được các lãnh đạo đến mừng thọ có cả cố Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Qua đời và quốc tang
Đại tướng Lê Đức Anh qua đời vào hồi 20h10, ngày 22 tháng 4 năm 2019 ở tuổi 98, tại nhà công vụ số 5A phố Hoàng Diệu, Hà Nội – nơi ông và vợ gắn bó với nhau từ cuối năm 1986.
Lễ viếng từ 7 – 11h ngày 3 tháng 5 năm 2019 tại Nhà tang lễ Quốc gia, Hà Nội (nơi đặt linh cữu của ông), Hội trường Thống Nhất và trụ sở Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế (quê hương ông) theo nghi thức quốc tang. Lễ truy điệu từ 10h45 ngày 3 tháng 5 năm 2019, 11h15 cùng ngày linh cữu được đưa ra Sân bay quốc tế Nội Bài để đưa về Thành phố Hồ Chí Minh theo nguyện vọng của gia đình. thumb|Linh cữu Lê Đức Anh tại TP. HCM Đến 15h30 ngày 3 tháng 5 năm 2019, linh cữu của Lê Đức Anh đã về tới Thành phố Hồ Chí Minh đặt an vị ở vị trí gia đình sắp xếp tại khu K1, nghĩa trang Thành phố Hồ Chí Minh. Lễ an táng đã được tổ chức tại đây vào 16h30 cùng ngày. Trong lễ tang, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nâng linh cữu, nhóm lực lượng ở Thành phố Hồ Chí Minh mang di ảnh của ông. Ông Lê Mạnh Hà – trưởng nam thay mặt gia đình lo liệu hậu sự. Đến đưa tiễn Lê Đức Anh lần cuối còn có Đặng Thị Ngọc Thịnh, Nguyễn Tấn Dũng và các lãnh đạo, nguyên lãnh đạo đảng, nhà nước ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó thể theo di nguyện của ông và nguyện vọng của gia đình, phần mộ của ông đã được đặt cạnh nơi an nghỉ của những người bạn tri kỷ quá cố, nơi để người dân có thể thường xuyên đến thăm viếng và chăm sóc.
Lịch sử thụ phong quân hàm
Phong tặng
Đại tướng Lê Đức Anh được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý:
- 50x50px Huân chương Sao Vàng (1997).
- 50x50px Huân chương Hồ Chí Minh.
- 50x50px Huân chương Quân công hạng Nhất.
- 50x50px Huân chương Chiến công hạng Nhất.
- 50x50px Huân chương Chiến thắng hạng Nhất.
- 52x52px Huân chương Kháng chiến hạng Nhất.
- 50x50px Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhất.
- 50x50px Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhất.
- 50x50px Huy chương Quân kỳ quyết thắng.
- 50x50px Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba.
- Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương khác.
Vinh danh
thumb|Cầu Phù Lỗ nằm trên đường Lê Đức Anh
Ngày 29 tháng 8 năm 2023, UBND tỉnh Thừa Thiên – Huế đã đặt tên đường Lê Đức Anh dài 3 km từ ngã 3 Trương Vỹ Dạ đến đường Võ Chí Công.
Ngày 29 tháng 4 năm 2024, UBND thành phố Hà Nội đã quyết định đổi tên một đoạn đường Quốc lộ 3 từ Quốc lộ 23 đến nút giao cao tốc Nội Bài – Bắc Ninh thành đường Lê Đức Anh.
Ngày 12 tháng 12 năm 2024, UBND thành phố Hồ Chí Minh đã đặt tên đường Lê Đức Anh từ nút giao An Sương đến vòng xoay An Lạc.
Gia đình riêng
Lê Đức Anh lập gia đình lần đầu với bà Phạm Thị Anh (tự Bảy Anh, sinh năm 1925, mất 2011). Bà Phạm Thị Anh là con của một điền chủ nhỏ ở huyện Bến Cát, Bình Dương. Ông và bà có với nhau 2 người con. Người con gái đầu mất hai ngày sau khi sinh do sinh thiếu tháng và phải chạy giặc. Người con gái thứ 2 tên Lê Xuân Hồng sinh năm 1951 ở xã An Tây, huyện Bến Cát, là Tiến sĩ tâm lý học, nguyên là Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Sư phạm mẫu giáo Trung ương 3 (nay là Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương Thành phố Hồ Chí Minh), nghỉ hưu năm 2005. Sau hiệp định Genève 1954, ông tập kết ra Bắc còn bà vẫn ở lại miền Nam. Sau khi ra Bắc, trong cuộc "chỉnh huấn, chỉnh quân" do cố vấn Trung Quốc chỉ đạo, ông bị kiểm điểm do lấy vợ thuộc thành phần địa chủ tư sản và phải tuyên bố "ly khai với gia đình vợ". Ở miền Nam, bà Bảy Anh nhận được tin này nhưng không đi bước nữa. Năm 2009, ông Anh và bà Bảy Anh đã gặp lại nhau sau gần 60 năm xa cách tại nhà riêng của bà Anh ở Bến Cát, Bình Dương. Bà Lê là bác sĩ y khoa, công tác tại Bệnh viện Việt Xô Hà Nội. Bà Lê đã có một con gái với chồng trước tên là Huỳnh Thị Lệ Hạnh, sinh năm 1950, là kỹ sư thông tin, cán bộ hàng không, nay đã nghỉ hưu. Theo các phương tiện thông tin đại chúng, Lê Đức Anh và người vợ hai của ông có hai người con:
- Người con đầu là Lê Mạnh Hà (sinh năm 1957), nguyên là Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, nghỉ hưu từ 1 tháng 11 năm 2017, đồng thời cũng là người đã thay mặt gia đình đọc lời cảm tạ trong lễ truy điệu vào ngày 3/5/2019.
- Người con gái thứ hai là Lê Xuân Hồng, sinh năm 1959, Cử nhân kinh tế, nguyên là Cục phó Cục Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh, nghỉ hưu tháng 11 năm 2016.
Các con của Lê Đức Anh đều là đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam.