✨Kurultai

Kurultai

Kurultai (tiếng Mông Cổ: , Хуралдай, Khuruldai; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Kurultay; phiên âm Hán Việt: Hốt lý lặc thai hay Khố lý lặc đài) là một hội đồng quân sự và chính trị cổ xưa của người Mông Cổ cũng như các dân tộc Turk. Kurultai là hội đồng bộ lạc và đế quốc được triệu tập để hoạch địch và thảo luận về các chiến dịch quân sự cũng như phân công ban lãnh đạo. Thành Cát Tư Hãn đã được bầu làm khả hãn tại Kurultai năm 1206. Hầu hết các chiến dịch quan trong đã được hoạch định tại các hội đồng tương tự và có một thiểu số. Về cơ cấu chính trị, các hội nghị này thường được điều hành bởi các đại biểu trên toàn thảo nguyên Mông Cổ, thay vì do các khả hãn và tướng lĩnh quân sự lãnh đạo, nhằm tạo sự minh bạch trong các quyết định cuối cùng.

Từ nguyên

Nguồn gốc của tên gọi từ Khur có nghĩa là "tụ họp" hoặc "thảo luận", dẫn đến từ Khural mang nghĩa "cuộc gặp" chính trị hoặc "hội đồng" chính trị trong tiếng Mông Cổ và tiếng Thổ Nhĩ Kỳ. Khuraldai hay Khuraldaan có nghĩa là "một cuộc tụ họp", hoặc theo đúng nghĩa đen tức là "sự kết hợp". Nguồn gốc của từ này cũng tương tự trong tiếng Mông Cổ, "khurim" có nghĩa là "đám cưới" hoặc "lễ hội". Từ này được dùng để nói về các cuộc hội tụ mang tính chất lễ hội trên thảo nguyên, nhưng hiện nay nó được sử dụng chủ yếu để chỉ lễ cưới truyền thống Mông Cổ.

Đế quốc Mông Cổ và các hãn quốc kế tục

Tất cả các Hãn thuộc đế chế Mông Cổ, ví dụ như Thành Cát Tư Hãn và Oa Khoát Đài, đều được chính thức bầu bởi một kurultai. Với tầm quan trọng đối với tương lai của đế chế, các kurultai bắt yêu cầu sự hiện diện của giới quý tộc thuộc tất cả các bộ lạc Mông Cổ, những người cũng chịu trách nhiệm quân sự. Do đó, sau cái chết của Oa Khoát Đài Hãn năm 1241 và Mông Kha Hãn năm 1259, các lãnh đạo và chỉ huy quân đội Mông Cổ đã phải rút khỏi ngoại ô Viên và Venice (1241) và Syria (năm 1259), chấm dứt các chiến dịch xâm lược Áo và Mamluk, để trở về kinh đô Karakorum bầu ra khả hãn mới.

Tại Hãn quốc Kim Trướng, khả hãn cũng được bầu trong các hội nghị kurultai tương tự mang tính chất địa phương. Mỗi khi cuộc bầu cử mới được tiến hành, một thủ tục thăng tiến phức tạp sẽ diễn ra. Johann Schiltberger, một nhà du hành người Đức ở thế kỷ 15, mô tả việc bổ nhiệm một khả hãn mới của Kim Trướng Hãn quốc như sau:

Lúc này, các vuơng công-quý tộc Nga thường phải chờ đợi ở kinh đô Sarai để chúc mừng một khả hãn mới, người sau đó sẽ ban hành lại yarliks (một loại sắc lệnh nhằm vạch ra đường lối cai trị). Suốt nhiều thế ký, người Nga thường xuyên chứng kiến ​​những nghi thức khan kutermiak này, và họ bắt đầu cảm thấy chúng ngày càng trở nên thường xuyên và vô nghĩa trong thời kỳ tranh giành quyền lực khoảng giữa thế kỷ 14 ở Hãn quốc Kim Trướng, làm phát sinh từ tiếng Nga "кутерьма" (kuter'ma), có nghĩa là "chạy lăng xăng vô nghĩa"..

Cách sử dụng hiện đại

Nhiều người Mông Cổ và Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại sử dụng nó theo nghĩa chính trị hoặc hành chính, như là một từ đồng nghĩa cho quốc hội, hội nghị, cuộc gặp, hội đồng, hội họp, tập hợp. Ví dụ: Qoroltai người Bashkir Thế giới, Qurultay thứ tư của người Tatarari ở Krym, Kurultai Quốc gia của Kyrgyzstan, Khural Lớn của Nhà nước của Mông Cổ, Khural Nhân dân của Buryatian và Kurultai tổ chức ngày hôm nay ở Hungary, có viết Kurultáj.

Ở Mông Cổ, các dạng sau của từ này vẫn còn được sử dụng ngày nay: khuraldai, khuraldaan và khural. "Ulsin Deed Shuukhiin Khuraldaan" có nghĩa là "phiên họp của Toà án tối cao".

Cũng được đánh vần là: kurultay, qurultay, qurıltai, qorıltay, và qoroltay.

Từ này có một số cách sử dụng hiện đại trong ngôn ngữ Thổ ngữ hiện đại: "Yüksek Öğretim Kurulu", "genel kurul toplantısı", "Kurultay" cũng là một từ được sử dụng rộng rãi trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại có nghĩa là tổng hợp, chẳng hạn như của các tổ chức, ủy ban vv "Kurul" cũng là một động từ trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ có ý nghĩa để được thành lập.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Kurultai** (tiếng Mông Cổ: , Хуралдай, _Khuruldai_; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: _Kurultay_; phiên âm Hán Việt: _Hốt lý lặc thai_ hay _Khố lý lặc đài_) là một hội đồng quân sự và chính trị cổ
**Đế quốc Mông Cổ**, tên chính thức là **Đại Mông Cổ Quốc** ( ) là đế quốc du mục lớn nhất trong lịch sử, từng tồn tại trong các thế kỷ 13 và 14. Khởi
Đại hãn **Quý Do** (tiếng Mông Cổ: Tập tin:Guyug qaghan.svg Гүюг хаан, _Güyük qaγan_; chữ Hán: 貴由; 1206 - 1248) là Khả hãn thứ ba của Đế quốc Mông Cổ, trị vì từ năm 1246
thumb|right|upright=1.4|Thiết Mộc Chân (Thành Cát Tư Hãn) tuổi xế chiều, chân dung bán thân thời [[nhà Nguyên thế kỷ thứ 14]] **Hội thề Ban Chu Ni** hay **Baljuna** (chữ Hán: ; bính âm: ) là
Hãn **Bạt Đô** (, , ) (khoảng 1205–1255) là một hãn Mông Cổ và đồng thời là người sáng lập ra Hãn quốc Kim Trướng. Bạt Đô là con trai của hãn Truật Xích và
Đại hãn **Mông Kha** (tiếng Mông Cổ: Tập tin:Mongke qaghan.svg Мөнх хаан (Mönkh khaan), còn gọi là **Mông Ca** (theo tiếng Trung: 蒙哥); sinh khoảng năm 1208 và mất năm 1259). Ông là đại hãn
**Oa Khoát Đài** (; – 11 tháng 12 năm 1241) là con trai thứ ba của Thành Cát Tư Hãn và là Đại Hãn thứ hai của đế quốc Mông Cổ sau khi cha của
**Húc Liệt Ngột** (; – 8 tháng 2 năm 1265) là một Hãn vương của Mông Cổ. Ông là em ruột của Mông Kha và Hốt Tất Liệt, con trai của Đà Lôi, cháu nội
**Đà Lôi** (;  – 1232) là con trai út của Thành Cát Tư Hãn và Bột Nhi Thiếp. Với tư cách là một trong những võ tướng nổi bật nhất tham gia các cuộc chinh
**Hãn quốc Sát Hợp Đài** hay **Sát Hợp Đài hãn quốc** (tiếng Mông Cổ: Tsagadai Khan Uls/Цагадайн улс) là một hãn quốc Turk-Mông Cổ bao gồm các phần lãnh thổ do Sát Hợp Đài cùng
**Nội chiến chi họ Đà Lôi** hay **Tranh chấp Hốt Tất Liệt – A Lý Bất Ca** là một cuộc nội chiến kéo dài 4 năm (1260–1264) giữa 2 thủ lĩnh Mông Cổ là Hốt
**Thành Cát Tư Hãn** (; tên thật: **Temüjin**; phiên âm Hán-Việt: **Thiết Mộc Chân**; tháng 8 năm 1227) là người sáng lập và khả hãn đầu tiên của Đế quốc Mông Cổ. Sau khi dành
**Hốt Tất Liệt** (, _Xubilaĭ Khaan_, ; 23 tháng 9, 1215 - 18 tháng 2, 1294), Hãn hiệu **Tiết Thiện Hãn** (ᠰᠡᠴᠡᠨ ᠬᠠᠭᠠᠠᠨ, Сэцэн хаан, _Sechen Khan_), là Đại Hãn thứ năm của đế quốc
**Mông Cổ** là một quốc gia nội lục nằm tại nút giao giữa ba khu vực Trung, Bắc và Đông của châu Á. Lãnh thổ Mông Cổ gần tương ứng với vùng Ngoại Mông trong
**Hãn quốc Kim Trướng** là một hãn quốc Hồi giáo gốc Mông Cổ, sau này đã Đột Quyết hoá, được thành lập ở vùng phía tây Đế quốc Mông Cổ sau chiến dịch xâm lược
**Nghị viện**, hay **nghị hội**, là một loại hình thái của cơ quan lập pháp, do số lượng đại biểu nhất định trong nhân dân bầu ra mà hợp thành nhằm nắm giữ quyền lập
**A Lý Bất Ca** (chuyển tự Latinh tiếng Mông Cổ: Ariq Böke, chữ Mông Cổ Kirin: Аригбөх, ; 1219–1266), là con trai út của Đà Lôi, cháu nội Thành Cát Tư Hãn. Sau cái chết
nhỏ|alt=A partially unrolled scroll. opened from left to right to show a portion of the scroll with widely spaced vertical lines of a foreign language. Imprinted over two of the lines is an official-looking square
Dưới đây là danh sách ghi nhận về những cuộc nhường ngôi trong lịch sử Trung Quốc: ## Tự nguyện nhường ngôi ### Nhường ngôi nhưng vẫn giữ quyền nhiếp chính # Năm 299 TCN,
**Cuộc xâm lược châu Âu của người Mông Cổ** vào thế kỷ 13 là một loạt các cuộc chiến nhằm chinh phục mảnh đất này của người Mông Cổ, bằng con đường tiêu diệt các
right|thumb|Meñli I Giray. right|thumb|Sahib II Giray. Hãn quốc Krym là một quốc gia tồn tại ở miền nam Ukraina ngày nay từ năm 1441 đến năm 1783. Người Tatar Krym mặc dù không phải là