Oa Khoát Đài (; – 11 tháng 12 năm 1241) là con trai thứ ba của Thành Cát Tư Hãn và là Đại Hãn thứ hai của đế quốc Mông Cổ sau khi cha của ông chết (xen giữa là khoảng thời gian nhiếp chính của em trai ông, Đà Lôi, từ 1227 tới 1229). Ông tiếp tục công việc mở rộng đế quốc mà cha của ông đã bắt đầu, và là Đại Hãn khi đế quốc Mông Cổ đạt tới đỉnh cao của sự mở rộng về phương tây trong quá trình xâm chiếm châu Âu. Giống như tất cả những người con khác của Thành Cát Tư Hãn, ông tham gia một cách tích cực vào việc chinh phục tại miền tây Trung Quốc và Trung Á.
Thân thế
Oa Khoát Đài là con trai thứ ba của Thành Cát Tư Hãn, và được đại hãn này coi là người con yêu thích nhất của ông, ngay từ khi Oa Khoát Đài còn là một đứa trẻ. Khi trưởng thành, Oa Khoát Đài được biết đến vì khả năng gây ảnh hưởng tới những người hay nghi ngờ trong bất kỳ cuộc tranh luận nào mà ông tham dự, đơn giản là do sức thuyết phục từ nhân cách của ông. Ông có vóc người cao lớn, được đánh giá là vui tính, có sức lôi cuốn quần chúng rất cao, thông minh và kiên định. Uy tín của ông được quy là một phần của thành công của ông trong việc giữ cho đế quốc Mông Cổ đi đúng đường lối mà cha của ông đã vạch ra.
Oa Khoát Đài cũng được biết đến như là một người khiêm tốn, người hiểu các nhược điểm của mình, và không tự coi mình là một thiên tài, biết lắng nghe và trọng dụng các vị lão tướng dưới quyền cha mình, cũng như những người mà bản thân ông cho là có khả năng nhất. Giống như những người Mông Cổ khác vào thời kỳ đó, ông đã được nuôi dưỡng và đào tạo như là một chiến binh ngay từ khi còn nhỏ, và trong vai trò là con trai của Thành Cát Tư Hãn nên ông là một phần trong kế hoạch của cha mình trong việc thiết lập một đế quốc toàn thế giới. Kinh nghiệm quân sự của ông đáng chú ý ở điểm là ông sẵn lòng lắng nghe các tướng của mình cũng như khả năng thích ứng với hoàn cảnh. Ông cũng là người cực kỳ thực dụng, giống như cha đẻ của mình, và nhìn nhận công việc ở kết quả cuối cùng chứ không phải nhìn vào cách thức thực hiện. Sự kiên định trong tính cách và làm mọi việc trên cơ sở có căn cứ tin cậy là những đặc điểm mà cha của ông đánh giá cao nhất đối với ông, và điều này đã đặt ông vào vị trí của người kế vị, chứ không phải hai người anh của ông là Truật Xích và Sát Hợp Đài.
Trị vì
Ông được bầu làm Đại Hãn năm 1229, theo kết quả của hội nghị kurultai (khố lý nhĩ đài) diễn ra sau khi Thành Cát Tư Hãn chết. Điều này chưa bao giờ bị thách thức do nó là mong muốn rõ ràng của Thành Cát Tư Hãn rằng Oa Khoát Đài sẽ là người kế vị ông. Nhờ vào cơ chế tổ chức mà Thành Cát Tư Hãn để lại cũng như uy tín của Oa Khoát Đài mà phần lớn các công việc và vấn đề của đế quốc Mông Cổ vẫn giữ được sự ổn định trong thời gian trị vì của ông. Cũng cần phải bổ sung thêm rằng Oa Khoát Đài là người cực kỳ thực dụng và hiểu biết các hạn chế của mình. Ông không có bất kỳ ảo tưởng nào rằng ông là người tương đương với cha mình trong vai trò của cả người chỉ huy quân sự lẫn người tổ chức, và sử dụng các khả năng của bản thân mà ông cho rằng có ưu thế nhất.
Trong thời gian trị vì của ông, người Mông Cổ đã hoàn thành việc tiêu diệt nhà Kim của người Nữ Chân (1115–1234) vào năm 1234, tiến tới việc thôn tính nhà Nam Tống. Năm 1235, dưới sự chỉ huy trực tiếp của ông, người Mông Cổ bắt đầu cuộc chiến tranh thôn tính chỉ kết thúc sau 45 năm, và tạo ra kết quả là sự hợp nhất toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc. Quân đội Mông Cổ cũng buộc Triều Tiên trở thành chư hầu, thiết lập sự kiểm soát vĩnh cửu đối với Ba Tư (do Chormagan chỉ huy) và, đáng chú ý nhất, mở rộng về phía tây dưới sự chỉ huy của hãn Bạt Đô (Ba tu) để chinh phục vùng thảo nguyên của Nga. Công cuộc chinh phục của họ về phía tây bao gồm gần như toàn bộ lãnh thổ Nga (ngoại trừ Novgorod trở thành chư hầu),đây là một chiến thắng lớn của Mông Cổ vì đại thắng nước Nga là việc ngay cả Napoléon và Hitler cũng không thể làm được.Tiếp theo Oa Khoát Đài bàn kế hoạch chinh phục Hungary và Ba Lan. Các con trai của Oa Khoát Đài là Khoát Đoan (Kadan) và hãn Quý Do (Güyük) đã tấn công Ba Lan và Transilvania.
Hãn Oa Khoát Đài đã ra lệnh xâm chiếm toàn bộ châu Âu, tiến tới vùng "Biển Lớn" (Đại Tây Dương), và chỉ có cái chết của ông đã ngăn cản việc chôn vùi đầy khả năng đối với Áo, Đức, Italia, Pháp, Tây Ban Nha cũng như các công quốc nhỏ khác tại châu Âu. Trên thực tế, các lực lượng Mông Cổ đã tiến sát tới thành Viên, đã thực hiện chiến dịch quân sự ác liệt trong mùa đông chống lại Áo và Đức trong đợt tiến quân đầu tiên vào Tây Âu, khi Oa Khoát Đài chết. Nhiều nhà sử học tin rằng chỉ có cái chết của ông mới ngăn chặn sự xâm chiếm toàn bộ châu Âu. Một điều không thể nghi ngờ là sự dễ dàng khi người Mông Cổ đánh tan liên quân Đức-Ba Lan và quân thánh chiến Ki-tô giáo tại trận Legnica, và hai ngày sau đó là quân đội Hungary tại trận Mohi, đã không báo trước điềm may cho những lực lượng còn lại của châu Âu.
Sự bành trướng của người Mông Cổ trong gần như toàn bộ châu Á đại lục dưới sự chỉ huy của Oa Khoát Đài đã đem lại sự ổn định chính trị và tái thiết lập con đường tơ lụa, hành trình thương mại chính giữa phương Đông và phương Tây khi đó.
Sau khi chết
Oa Khoát Đài chết năm 1241, làm cho công cuộc chinh phục châu Âu của người Mông Cổ chấm dứt sớm hơn dự kiến. Các tướng lĩnh chỉ huy được biết tin xấu này khi họ đang trên đường tiến tới thành Viên, đã rút lui để về tham dự hội nghị Ikh kurultai tại Mông Cổ, và không bao giờ tiến quân xa như thế về phương tây nữa.
Con trai của ông, Quý Do (1206-1248) cuối cùng đã trở thành người kế vị ông, sau 5 năm nhiếp chính của vợ ông là đại hoàng hậu Bột Lạt Cáp Chân (Töregene Khatun). Nhưng Bạt Đô (1205-1255), hãn của hãn quốc Kipchak (hay Kim Trướng hãn quốc) tại Nga, không bao giờ chấp nhận Quý Do, người đã chết khi trên đường tới đe dọa ông. Điều này diễn ra tới tận năm 1255, khi hãn Mông Kha (hay Mông Ca, Mongke - con trai của Đà Lôi) lên kế vị, và Bạt Đô cảm thấy đủ an toàn để có thể lại chuẩn bị cho việc xâm lăng châu Âu. Rất may mắn cho người châu Âu là ông này cũng đã chết trước khi kế hoạch của ông có thể được thực hiện. Con trai của ông là hãn Sartaq cũng có ý định thực hiện điều này, nhưng ông ta cũng đã chết năm 1256. Năm 1258, sau khi em trai của Bạt Đô là Biệt Nhi Ca (Berke) (?-1266) lên trị vì hãn quốc Kipchak thì do là người theo Hồi giáo nên ông này ưa thích việc ngăn chặn mọi ý định của người em họ là hãn Húc Liệt Ngột (Hulagu – con trai Đà Lôi) (1217-1265) trong việc làm tổn hại cho vùng đất thánh của mình thay vì xâm lăng châu Âu. Các nhà sử học đánh dấu sự thoái trào của đế quốc Mông Cổ hợp nhất là sau cái chết của Oa Khoát Đài, mặc dù việc lên ngôi của Mông Kha đã làm ngừng mọi cuộc nội chiến gia đình trong một khoảng thời gian.
Gia phả
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Oa Khoát Đài** (; – 11 tháng 12 năm 1241) là con trai thứ ba của Thành Cát Tư Hãn và là Đại Hãn thứ hai của đế quốc Mông Cổ sau khi cha của
**Hãn quốc Sát Hợp Đài** hay **Sát Hợp Đài hãn quốc** (tiếng Mông Cổ: Tsagadai Khan Uls/Цагадайн улс) là một hãn quốc Turk-Mông Cổ bao gồm các phần lãnh thổ do Sát Hợp Đài cùng
**Karakorum** (tiếng Mông Cổ Khalkha: Хархорум _Kharkhorum_, tiếng Trung: 哈拉和林) là thủ đô của Đế chế Mông Cổ (1235-1260), và của nhà Bắc Nguyên (Thế kỷ 14–15). Di tích của nó nằm ở góc tây
**Sát Hợp Đài** (; – 1242) là một hoàng tử của Đế quốc Mông Cổ, con trai thứ của Thành Cát Tư Hãn và chính thất Bột Nhi Thiếp. Ông nổi tiếng vì thông thạo
**Tốc Bất Đài** (tiếng Mông Cổ: _Sübügätäi_ or _Sübü'ätäi_; chữ Hán: 速不台, phiên âm: **Subetei**, **Subetai**, **Subotai**, **Tsubotai**, **Tsubetei**, **Tsubatai**; , _Sübeedei_; 1176–1248) là một danh tướng Mông Cổ bách chiến bách thắng dưới trướng
**Dã Tốc Mông Kha** (Tiếng Mông Cổ: Есөнмөнх, mất năm 1252) là _ulus_ của Hãn quốc Sát Hợp Đài trong khoảng thời gian 1246/1247–1252. ## Tiểu sử Dã Tốc Mông Kha là con trai thứ
**Đế quốc Mông Cổ**, tên chính thức là **Đại Mông Cổ Quốc** ( ) là đế quốc du mục lớn nhất trong lịch sử, từng tồn tại trong các thế kỷ 13 và 14. Khởi
**Thành Cát Tư Hãn** (; tên thật: **Temüjin**; phiên âm Hán-Việt: **Thiết Mộc Chân**; tháng 8 năm 1227) là người sáng lập và khả hãn đầu tiên của Đế quốc Mông Cổ. Sau khi dành
**Đà Lôi** (; – 1232) là con trai út của Thành Cát Tư Hãn và Bột Nhi Thiếp. Với tư cách là một trong những võ tướng nổi bật nhất tham gia các cuộc chinh
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Cuộc xâm lược châu Âu của người Mông Cổ** vào thế kỷ 13 là một loạt các cuộc chiến nhằm chinh phục mảnh đất này của người Mông Cổ, bằng con đường tiêu diệt các
**Truật Xích** (; – ) là một hoàng tử của Đế quốc Mông Cổ. Tuy cuộc đời gắn liền với những tranh cãi và đồn thổi xung quanh hoàn cảnh sinh đẻ và thân thế
**Hốt Tất Liệt** (, _Xubilaĭ Khaan_, ; 23 tháng 9, 1215 - 18 tháng 2, 1294), Hãn hiệu **Tiết Thiện Hãn** (ᠰᠡᠴᠡᠨ ᠬᠠᠭᠠᠠᠨ, Сэцэн хаан, _Sechen Khan_), là Đại Hãn thứ năm của đế quốc
**Tống Lý Tông** (chữ Hán: 宋理宗, 26 tháng 1 năm 1205 - 16 tháng 11 năm 1264), thụy hiệu đầy đủ **Kiến Đạo Bị Đức Đại Công Phục Hưng Liệt Văn Nhân Vũ Thánh Minh
**Các cuộc xâm lược của Mông Cổ** đã được tiến hành trong suốt thế kỷ 13, kết quả là tạo ra một Đế quốc Mông Cổ vô cùng rộng lớn bao phủ phần lớn châu
**Nội chiến chi họ Đà Lôi** hay **Tranh chấp Hốt Tất Liệt – A Lý Bất Ca** là một cuộc nội chiến kéo dài 4 năm (1260–1264) giữa 2 thủ lĩnh Mông Cổ là Hốt
**A Lý Bất Ca** (chuyển tự Latinh tiếng Mông Cổ: Ariq Böke, chữ Mông Cổ Kirin: Аригбөх, ; 1219–1266), là con trai út của Đà Lôi, cháu nội Thành Cát Tư Hãn. Sau cái chết
**Quân Mông Cổ bao vây Khai Phong** từ năm 1232 đến năm 1233, kết quả là chiếm được Biện Kinh của triều Kim. Người Mông Cổ và Kim khi đó đã giao chiến trong gần
Hãn **Bạt Đô** (, , ) (khoảng 1205–1255) là một hãn Mông Cổ và đồng thời là người sáng lập ra Hãn quốc Kim Trướng. Bạt Đô là con trai của hãn Truật Xích và
Một bức tượng của Gia Luật Sở Tài tại công viên Guta ở [[Cẩm Châu, Liêu Ninh]] **Gia Luật Sở Tài** (Chữ Hán: 耶律楚材, 1190 – 1244), tự **Tấn Khanh** (晉卿), hiệu **Trạm Nhiên cư
Là một phần của Mông Cổ xâm lược Châu Âu, Đế chế Mông Cổ đã xâm chiếm Rus Kiev vào thế kỷ XIII, phá hủy nhiều thành phố, bao gồm Ryazan, Kolomna, Moskva, Vladimir và
Đại hãn **Quý Do** (tiếng Mông Cổ: Tập tin:Guyug qaghan.svg Гүюг хаан, _Güyük qaγan_; chữ Hán: 貴由; 1206 - 1248) là Khả hãn thứ ba của Đế quốc Mông Cổ, trị vì từ năm 1246
Đại hãn **Mông Kha** (tiếng Mông Cổ: Tập tin:Mongke qaghan.svg Мөнх хаан (Mönkh khaan), còn gọi là **Mông Ca** (theo tiếng Trung: 蒙哥); sinh khoảng năm 1208 và mất năm 1259). Ông là đại hãn
**Cuộc xâm lược Khwarezmia** bắt đầu từ 1219 đến 1221 đánh dấu điểm khởi đầu của quá trình người Mông Cổ chinh phục các nhà nước Hồi giáo. Sự bành trướng của Mông Cổ cuối
**Mông Cổ chinh phạt nhà Kim** (chữ Hán: 蒙古罰金; phiên âm: _Mông Cổ phạt Kim_), hay **Chiến tranh Mông–Kim** (chữ Hán: 蒙金戰爭; phiên âm: _Mông-Kim chiến tranh_), là cuộc xâm lược toàn diện của người
**Biệt Nhi Ca Hãn** (1208 - 1266) (**Berke** hay **Birkai**; , ) là một tướng lĩnh Mông Cổ, khả hãn Kim Trướng hãn quốc, và cháu nội của Thành Cát Tư Hãn. Biệt Nhi Ca
**Mahmud Ghazan** (sinh năm 1271 – mất ngày 11 tháng 5 năm 1304) (, , **Ghazan Khan,** đôi khi được người phương Tây gọi là **Casanus** ) là Hãn thứ 7 của Y Nhi Hãn
**Giả Lặc Miệt** hay còn gọi là **Gia Luật Mễ** (tiếng Hán: 者勒蔑) người bộ tộc Khất Nhan, con của một người tên Hán là Bách Linh Điểu, thuộc hạ của Dã Tốc Cai, thuộc
**_Mông Cổ bí sử_** (chữ Mông Cổ cổ điển: Tập tin:Monggol-un Nigucha Tobchiyian.png _Mongγol-un niγuca tobčiyan_, tiếng Mông Cổ Khalkha: Монголын нууц товчоо, _Mongolyn nuuts tovchoo_) là tác phẩm văn chương tiếng Mông Cổ lâu
Các chiến binh Công giáo chiếm đóng Jerusalem trong cuộc Thập tự chinh thứ nhất. **Giai đoạn giữa Trung Cổ** là một thời kỳ lịch sử ở châu Âu kéo dài trong ba thế kỷ
**_Xạ điêu anh hùng truyện_** (giản thể: 射雕英雄传; phồn thể: 射鵰英雄傳; bính âm: _Shè Diāo Yīng Xióng Zhuàn_) là bộ phim truyền hình do Hãng ảnh thị Thượng Hải (上海唐人电影制作有限公司) của Trung Quốc và Mediacorp
**Hãn quốc Kim Trướng** là một hãn quốc Hồi giáo gốc Mông Cổ, sau này đã Đột Quyết hoá, được thành lập ở vùng phía tây Đế quốc Mông Cổ sau chiến dịch xâm lược
**Hãn quốc Y Nhi**, (, _Hülegü-yn Ulus_, , _Ilxānān_, chữ Hán: 伊兒汗國), còn dịch là **hãn quốc Y Lợi** (伊利汗国) hoặc **hãn quốc Y Nhĩ** (伊尔汗国), là một hãn quốc của người Mông Cổ thành
**Hành lang Hà Tây** hay **hành lang Cam Túc** (, âm Hán Việt:_Hà Tây tẩu lang_) đề cập tới tuyến đường lịch sử tại tỉnh Cam Túc ở Trung Quốc. Hành lang là một phần
**Gia Luật Lưu Ca** (chữ Hán: 耶律留哥, 1165 – 1220) hay **Lưu Cách** (琉格) , người dân tộc Khiết Đan, là thủ lĩnh nổi dậy phản kháng cuối đời Kim, nhà sáng lập nước Đông
**Húc Liệt Ngột** (; – 8 tháng 2 năm 1265) là một Hãn vương của Mông Cổ. Ông là em ruột của Mông Kha và Hốt Tất Liệt, con trai của Đà Lôi, cháu nội
**Lưu Mẫn** (chữ Hán: 刘敏, 1201 – 1259), tên tự là **Đức Nhu**, tiểu tự là **Hữu Công**, người làng Thanh Lỗ, huyện Tuyên Đức , quan viên Đế quốc Mông Cổ. Ông xuất thân
thumb|right|upright=1.4|Thiết Mộc Chân (Thành Cát Tư Hãn) tuổi xế chiều, chân dung bán thân thời [[nhà Nguyên thế kỷ thứ 14]] **Hội thề Ban Chu Ni** hay **Baljuna** (chữ Hán: ; bính âm: ) là
**Kurultai** (tiếng Mông Cổ: , Хуралдай, _Khuruldai_; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: _Kurultay_; phiên âm Hán Việt: _Hốt lý lặc thai_ hay _Khố lý lặc đài_) là một hội đồng quân sự và chính trị cổ
**A Lặc Tháp Luân** (chữ Hán: 阿勒塔伦; bính âm: _Ā lēi tǎ lún_; tiếng Anh: Aletalun hay Alaltun), còn gọi là _A Lặc Tháp Lỗ Hãn_ (阿勒塔鲁罕), _A Nhi Đáp Lỗ Hắc_ (阿儿答鲁黑), _Án Tháp
**Trận Thái Châu** (蔡州之战, Thái Châu chi chiến) là cuộc tấn công của liên quân Mông Cổ – Nam Tống nhằm vào Thái Châu , cứ điểm cuối cùng của nhà Kim, diễn ra từ
thumb|Thành Cát Tư Hãn. **Bột Nhi Chỉ Cân thị** hay **Bột Nhi Chích Cân thị** (, chữ Cyril: Боржигин, chữ Latinh: _Borǰigin_, _Bordžigin_, _Borǰigit_; ) là một thị tộc hùng mạnh đóng một vai trò
**Mông Cổ xâm lược Đông Hạ** là một trong các cuộc xâm lược của Đế quốc Mông Cổ vào đầu thế kỷ 13. Ban đầu, một cuộc xung đột nổ ra vào năm 1217 khi
**Nguyên Vũ Tông** (元武宗, 1281 - 1311), trị vì từ năm 1307 - 1311, hay **Khúc Luật Hãn** (, Külüg Khan, хүлэг хаан), là vị Hoàng đế thứ ba của nhà Nguyên, đồng thời là
**Hoàn Trạch** (chữ Hán: 完泽, 1246 – 1303), người thị tộc Thổ Biệt Yến (Tǔbiéyān), bộ tộc Khắc Liệt (Keraites), dân tộc Mông Cổ, thừa tướng nhà Nguyên. ## Thân thế Ông nội là Thổ
**Lịch đại Đế Vương miếu** (chữ Hán phồn thể: 厯代帝王廟; chữ Hán giản thể: 历代帝王庙, bính âm Hán ngữ: _Lìdài Dì Wáng miào_), còn gọi là **Miếu Lịch đại Đế Vương Trung Quốc** hay **Đế
**Minh Thái Tổ** (chữ Hán: 明太祖, 21 tháng 10 năm 1328 – 24 tháng 6 năm 1398), tên thật là **Chu Trùng Bát** (朱重八 ), còn gọi là **Hồng Vũ Đế** (洪武帝), **Hồng Vũ quân**
**Quách Đức Hải** (chữ Hán: 郭德海, ? – 1234), tự **Đại Dương**, người huyện Trịnh, Hoa Châu , tướng lãnh người dân tộc Hán của Đế quốc Mông Cổ. ## Xuất thân Đức Hải là
**Nhà Tống** là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi
thumb|phải|Tranh vẽ các tiểu hoàng tử của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng tử** (chữ Hán: 皇子; tiếng Anh: _Imperial Prince_), mang nghĩa _"Con trai của Hoàng thất"_, là danh từ chỉ những người con trai của