✨Kim tự tháp Userkaf

Kim tự tháp Userkaf

Phức hợp kim tự tháp của Userkaf được xây vào khoảng năm 2490 TCN, thuộc sở hữu của pharaon Userkaf, người sáng lập Vương triều thứ 5 của Ai Cập. Nó nằm ở phía đông bắc của kim tự tháp Djoser, thuộc khu nghãi trang Saqqara. Tương tự như kim tự tháp Teti, kim tự tháp Userkaf đã bị tàn phá theo thời gian, giờ đây nó trông như một ngọn đồi hình nón giữa lòng sa mạc. Vì lý do này mà nó được gọi là "đống đá vụn" (El-Haram el-Maharbish) và được công nhận là một kim tự tháp hoàng gia bởi các nhà khảo cổ phương Tây trong thế kỷ 19.

Kim tự tháp của Userkaf là một phần của khu phức hợp an táng bao gồm một ngôi đền tang lễ, một nhà nguyện dâng lễ vật, một kim tự tháp thờ cúng cũng như một kim tự tháp riêng biệt và một ngôi đền tang lễ dành cho hoàng hậu Neferhetepes, vợ ông. Kim tự tháp thờ cúng và ngôi đền tang lễ của nhà vua đã bị hủy hoại hoàn toàn, rất khó nhận diện. Trong khi đó, kim tự tháp của hoàng hậu cũng không hơn gì một đống hoang tàn.

Khu phức hợp của Userkaf có nhiều điểm khác biệt so với những kim tự tháp của các vua thuộc Vương triều thứ 4 cả về kích cỡ lẫn cấu trúc. Như vậy, phức hợp kim tự tháp của Userkaf có thể được xem là một ví dụ cho sự thay đổi sâu sắc diễn ra giữa hai vương triều - người đã có công rất lớn trong việc trùng tu lăng mộ của các tiên vương.

Lịch sử khảo cổ

trái|nhỏ|251x251px|Sơ đồ khu phức hợp của [[Userkaf]] Lối vào của kim tự tháp được phát hiện bởi nhà Ai Cập học người Ý là Orazio Marucchi. Mãi đến 8 năm sau, kim tự tháp mới được khám phá bởi John Shae Perring, người đã lợi dụng một đường hầm được đào bởi những tên trộm để vào trong. Perring không rõ chủ sở hữu của ngôi mộ này là ai và đã gán nó cho pharaon Djedkare Isesi, vua áp chót của Vương triều thứ 5. Sau đó, Perring đã cho lấp đường hầm kia lại, và cho đến nay vẫn không ai tìm ra. Năm 1842, Karl Richard Lepsius đã xếp nó vào Danh sách các kim tự tháp của Lepsius với mã số XXXI. Và kể từ khi Perring lấp hầm lại, Lepsius cũng không có bất cứ cuộc khai quật nào thêm. Nhiều năm sau đó, cả hai lại phát hiện một tấm bia bằng đá vôi và đầu tượng bằng đá granite đỏ của nhà vua, do đó họ kết luận rằng Usekaf là chủ nhân của kim tự tháp này. Không may thay, cổng vào lại bị sụp sau một trận động đất năm 1991.

Nhiều cuộc nghiên cứu khảo sát lại được thực hiện bởi Audran Labrousse vào năm 2000. Những bức tường được trang trí với những con thuyền và những bụi cây cói. Hai cánh cửa nhỏ góc dẫn đến một khoảng sân nhỏ hơn, bên trong là 8 cột đá granite đỏ. Nhiều căn phòng và một vài bức tượng của nhà vua được phát hiện tại đây. Những gì còn sót lại ngày nay là khoảng sân bằng đá bazan cùng với những viên gạch lớn làm khung cửa ở phía ngoài.

Nhà thờ nhỏ ở phía nam đã không còn tồn tại nữa. Những tàn tích của nó là những mảnh vỡ của những bức tường làm bằng đá vôi và đá granite với những phù điêu trên đó. Cũng như đền thờ, nền của nhà thờ được lót bằng đá bazan đen. Những tên trộm đã lấy đi những viên gạch bằng đá vôi của kim tự tháp này. Ngày nay, nó chỉ còn trơ lại một phần đáy.

Kim tự tháp chính

nhỏ|233x233px|Cấu trúc bên trong của kim tự tháp Userkaf Kim tự tháp ban đầu có chiều cao khoảng 49 mét và chiều rộng 73 mét, nghiêng một góc 53°. Khi các lớp đá vôi bên ngoài bị lấy đi, lõi bên trong lộ ra ngoài khiến chúng nhanh chóng trở nên điêu tàn.

Một hành lang dày hơn 18 mét dẫn xuống dưới kim tự tháp. Vài mét đầu tiên của hành lang, trần tường và bậc thang được làm bằng granite đỏ. Hành lang được chặn bởi 2 cánh cửa cũng bằng đá granite. Đằng sau cửa, một hành lang phụ dẫn tới một phòng phụ hình chữ T ở phía đông của kim tự tháp.

Hành lang chính tiếp tục chạy về phía nam dẫn tới phòng mộ chính. Nhiều mảnh vỡ của một quan tài bằng đá bazan đen không được tô vẽ nằm trên nền nhà cùng với một cái hố để đặt rương đựng các bình chứa nội tạng.

Phức hợp kim tự tháp của Neferhetepes

trái|nhỏ|Đền thờ của Userkaf cùng với kim tự tháp của Neferhetepes (đã bị hư hỏng) Phức hợp của hoàng hậu Neferhetepes nằm cách phức hợp của Userkaf khoảng 10 mét về hướng nam. Toàn bộ khu này ngày nay chỉ còn là một đống đá vụn.

Kim tự tháp của hoàng hậu được khám phá lần đầu tiên bởi Firth vào năm 1928, 1 năm sau đó ông đã cho rằng Neferhetepes là chủ nhân của nơi này. Nhưng trước đó vào năm 1979, Audran Labrousse đã khai quật nơi này và thu gom được nhiều bằng chứng để khẳng định rằng đây là lăng mộ của bà.

Cấu trúc bên trong kim tự tháp này không khác gì một phiên bản thu nhỏ của kim tự tháp Userkaf, ngoại trừ không có phòng phụ. Từ những phế tích, các nhà khảo cổ cho rằng, đền thờ bên ngoài có thể có một hàng cột đá, một nhà thờ nhỏ bên cạnh và nhiều phòng phụ. Không có bất cứ dấu tích nào của một kim tự tháp vệ tinh.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Phức hợp kim tự tháp của Userkaf** được xây vào khoảng năm 2490 TCN, thuộc sở hữu của pharaon Userkaf, người sáng lập Vương triều thứ 5 của Ai Cập. Nó nằm ở phía đông
**Kim tự tháp Sahure** hay _"Sự tái sinh của linh hồn Ba của Sahure"_, là kim tự tháp đầu tiên được xây tại nghĩa trang Abusir vào khoảng năm 2480 TCN. Đây là lăng mộ
**Userkaf** (được biết đến trong Tiếng Hy Lạp cổ đại như là **Usercherês**, **Ούσερχέρης**) là một pharaoh Ai Cập, ông là người sáng lập ra Vương triều thứ 5, ông trị vì từ 7 tới
|} Neferhetepes trong chữ tượng hình **Neferhetepes** là vợ của vị vua Ai Cập cổ đại Userkaf, là vị vua đầu tiên của triều đại thứ năm. Bà cũng là mẹ của vua Sahure, người
**Neferhetepes** là một công chúa thuộc Vương triều thứ 4 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Tên của bà có nghĩa là "_Vẻ duyên dáng xinh đẹp của nàng_". ## Tiểu sử Neferhetepes chỉ
**Shepseskaf** là vị pharaon thứ sáu và cũng là vị vua cuối cùng của vương triều thứ 4 thuộc thời kỳ Cổ Vương quốc của Ai Cập. Ông đã cai trị một triều đại kéo
**Unas** hoặc **Wenis**, hay còn được phát âm là **Unis** (cách viết theo tiếng Hy Lạp của **Oenas** hoặc **Onnos**), là một pharaon Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ chín và cũng
:''Đừng nhầm lẫn với Sekhemkare, một Pharaon thuộc Vương triều thứ Mười Ba của Ai Cập **Sekhemkare** là một vương tử dưới thời Vương triều thứ Tư, đồng thời là một wazir (tương đương chức
**Sahure** (có nghĩa là "Ngài là người gần gũi với Re") là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông còn là vị vua thứ hai của vương triều thứ năm và đã cai trị
**Neferirkare Kakai** (được biết đến trong tiếng Hy Lạp là Nefercherês, Νεφερχέρης) là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ ba của vương triều thứ Năm. Neferirkare là con trai
**Shepseskare** hoặc **Shepseskara** (có nghĩa là "Cao quý thay khi là linh hồn của Ra") là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông có thể là vị vua thứ tư hoặc thứ năm của
**Nyuserre Ini** (còn được viết là **Neuserre Ini** hay **Niuserre Ini**, và đôi khi là **Nyuserra**; trong tiếng Hy Lạp tên của ông được gọi là Rathoris, _Ραθούρης_), là một pharaon của Ai Cập cổ
**Menkauhor Kaiu** (còn được gọi là **Ikauhor**, tiếng Hy Lạp cổ là **Mencherês**, Μεγχερῆς) là một vị pharaon của Ai Cập cổ đại thuộc thời kỳ Cổ vương quốc. Ông là vị vua thứ bảy
**Djedkare Isesi** (được biết đến trong tiếng Hy Lạp là **Tancherês**), là một vị pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ tám và cũng là vị vua áp chót của vương
**Neferefre Isi** (còn được gọi là **Raneferef**, **Ranefer** và tên gọi theo tiếng Hy Lạp là Cherês, _Χέρης_) là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông có thể là vị vua thứ tư nhưng
nhỏ|261x261px|Từ trái qua phải lần lượt là lăng mộ của [[Djoser, Unas, Userkaf]] **Saqqara** (Tiếng Ả Rập: سقارة), còn được viết là **Sakkara** hay **Saccara**, là một khu nghĩa trang của người Ai Cập cổ
:_Đối với vương hậu cùng tên, xem Khentkaus II và Khentkaus III_ **Khentkaus I** là một vương hậu thuộc những năm cuối cùng của giai đoạn Vương triều thứ 4 trong lịch sử Ai Cập
|- id="26" | colspan="3" id="27" style="text-align:center; font-size:95%; padding:0.6em 0em 0.6em 0em;" |thế=|giữa|510x510px|Vị trí của Cổ vương quốc
Cổ Vương quốc Ai Cập (khoảng năm 2686 TCN - khoảng năm 2181 TCN), lãnh
**Userkare** (còn được gọi là **Woserkare**, có nghĩa là "Hùng mạnh khi là linh hồn của Ra") là vị pharaon thứ hai của vương triều thứ sáu, ông chỉ trị vì trong một thời gian