Sultan Hussein Kamel (Tiếng Ả Rập: السلطان حسين كامل; Tháng 11 năm 1853 - 9 tháng 10 năm 1917) là Sultan của Ai Cập từ ngày 19/12/1914 đến ngày 09/10/1917, trong thời kỳ Đế quốc Anh bảo hộ Ai Cập. Ông là người đầu tiên giữ tước hiệu Sultan của Ai Cập kể từ khi Đế quốc Ottoman giết chết Sultan Tuman bay II vào năm 1517 sau khi họ chinh phục Ai Cập.
Hussein Kamel là con trai thứ hai của Khedive Ismail Pasha, người trị vì Ai Cập từ năm 1863 đến năm 1879. Ông được tuyên bố là Sultan của Ai Cập vào ngày 19/12/1914, sau khi quân Anh chiếm đóng Ai Cập tuyên bố phế truất cháu trai của ông, Phó vương Abbas Hilmi II, vào ngày 05/11/1914. Mặc dù được tuyên bố thoát khỏi sự phục thuộc vào Đế quốc Ottoman, nâng vị trí quốc gia từ Phó vương lên Vương quốc, nhưng trên thực tế Vương quốc Hồi giáo Ai Cập vẫn là một quốc gia được Anh bảo hộ, với quyền lực chính trị và quân sự được trao cho các quan chức người Anh. Điều này đồng nghĩa với việc Phó vương Ai Cập không còn là một tỉnh của Đế quốc Ottoman, dù chỉ là trên danh nghĩa kể từ khi Muhammad Ali lên nắm quyền vào năm 1805.
Sau cái chết của Quốc vương Hussein Kamel, con trai duy nhất của ông, Vương tử Kamal el Dine Hussein, đã từ chối kế vị ngai vàng, và anh trai của Hussein Kamel là Ahmed Fuad đã lên ngôi với tước hiệu là Fuad I của Ai Cập. Ở phần đầu của cuốn tiểu thuyết Palace Walk của nhà văn người Ai Cập từng đoạt giải Nobel - Naguib Mahfouz, nhân vật Ahmad Abd al-Jawwad nói rằng: "Vương tử Kamal al-Din Husayn là một người đàn ông tốt! Bạn có biết anh ta đã làm gì không? Anh ta đã từ chối kế thừa ngôi vị của người cha quá cố của mình chừng nào người Anh còn nắm quyền".
thumb|[[Xu bạc: 20 qirsh của Vương quốc Hồi giáo Ai Cập được đúc dưới thời trị vì của Hussein Kamel - 1916]]
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Sultan Hussein Kamel** (Tiếng Ả Rập: السلطان حسين كامل; Tháng 11 năm 1853 - 9 tháng 10 năm 1917) là Sultan của Ai Cập từ ngày 19/12/1914 đến ngày 09/10/1917, trong thời kỳ Đế quốc
**Abbas II** (còn được gọi là Abbās Ḥilmī Pasha, tiếng Ả Rập: عباس حلمي باشا), ông là Khedive (Phó vương) cuối cùng đại diện cho Đế quốc Ottoman cai trị Ai Cập và Sudan. Thời
**Cách mạng Ai Cập năm 1952** (), còn được gọi là **Cách mạng 23 tháng 7**, đánh dấu một giai đoạn biến đổi quan trọng ở Ai Cập, cả về chính trị và kinh tế
**Phó vương Ai Cập** hay **Ai Cập Khedive** (, ; __) là giai đoạn Ai Cập giữ vai trò là một quốc gia chư hầu tự trị của Đế chế Ottoman, chế độ Khedive được
**Ai Cập** ( , , ), tên chính thức là nước **Cộng hòa Ả Rập Ai Cập**, là một quốc gia liên lục địa có phần lớn lãnh thổ nằm tại Bắc Phi, cùng với
phải|nhỏ| Doanh trại của Anh trên [[sông Nile. ]] **Lịch sử Ai Cập thuộc Anh** kéo dài từ năm 1882, khi Ai Cập bị quân đội Anh chiếm đóng trong Chiến tranh Anh-Ai Cập, cho
**Vương quốc Ai Cập** (; __, "Vương quốc Ai Cập") là quốc gia độc lập _de jure_ được thành lập dưới sự cai trị của Nhà Muhammad Ali năm 1922 sau tuyên bố độc lập
**Jeshm Afet Hanim** (1830 - 11 tháng 11 năm 1907) (tiếng Ả Rập: جشم آفت هانم; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: _Çeşm İfet Hanım_), là một thứ phi của Phó vương Ai Cập Isma'il Pasha. Bà
**Gamal Abdel Nasser Hussein** (ngày 15 tháng 1 năm 1918 – ngày 28 tháng 9 năm 1970) là chính khách người Ai Cập, tổng thống Ai Cập từ năm 1954 tới khi qua đời vào
**Melek Hassan Tourhan** (tiếng Ả Rập: ملك حسن طوران) (27 tháng 10 năm 1869 – 4 tháng 2 năm 1956), là vương hậu thứ hai của Quốc vương Ai Cập Hussein Kamel. Sau khi chồng
**Mecca** hay **Makkah** ( __ ) là một thành phố tại vùng đồng bằng Tihamah thuộc Ả Rập Xê Út và là thủ phủ của vùng Makkah (Mecca). Thành phố nằm trong nội lục, cách