✨Gamal Abdel Nasser

Gamal Abdel Nasser

Gamal Abdel Nasser Hussein (ngày 15 tháng 1 năm 1918 – ngày 28 tháng 9 năm 1970) là chính khách người Ai Cập, tổng thống Ai Cập từ năm 1954 tới khi qua đời vào năm 1970. Năm 1952, Nasser làm binh biến lật đổ chế độ quân chủ Ai Cập. Năm 1953, ông tiến hành chính sách cải cách ruộng đất sâu rộng. Năm 1954, ông ra lệnh trấn áp Hội Anh em Hồi giáo sau khi bị một thành viên ám sát hụt. Ông chính thức trở thành tổng thống vào tháng 6 năm 1956 sau khi bắt quản thúc tổng thống đương chức Muhammad Naguib.

Tiếng tăm của Nasser ở Ai Cập và trên toàn thế giới Ả Rập tăng vọt sau khi ông quốc hữu hóa Công ty Kênh đào Suez và đánh bại liên minh Anh, Pháp, Israel trong Khủng hoảng Kênh đào Suez. Nasser vận động thành lập một liên hiệp Ả Rập mà thành quả là Cộng hòa Ả Rập Thống nhất (CHARTN) gồm Ai Cập và Syria từ năm 1958 tới năm 1961. Năm 1962, Nasser tiến hành chính sách đổi mới xã hội chủ nghĩa ở Ai Cập. Tuy Syria ly khai khỏi CHARTN nhưng những phe phái ủng hộ Nasser lên nắm quyền ở một vài nước Ả Rập. Ông sa vào Nội chiến Bắc Yemen và Chiến tranh Lạnh Ả Rập. Tháng 3 năm 1965, Nasser tái cử chức tổng thống trong một cuộc bầu cử độc diễn. Sau khi Ai Cập bại trận trong Chiến tranh Sáu Ngày, Nasser từ chức nhưng được phục chức nhờ nhân dân biểu tình phản đối. Năm 1968, Nasser phát động Chiến tranh Tiêu hao để giành lại Bán đảo Sinai bị Israel chiếm đóng và tiến hành chính sách cải cách chế độ, tiêu trừ thế lực chính trị của quân đội. Năm 1970, Nasser lên cơn đau tim qua đời một vài tiếng sau khi hội nghị thượng đỉnh Liên đoàn Ả Rập bế mạc. Năm tới sáu triệu người đi đưa đám ở Cairo, dân Ả Rập tuôn trào thương tiếc ông qua đời.

Nasser là nhân vật nổi tiếng trong thế giới Ả Rập do nỗ lực vận động công bằng xã hội, thống nhất Ả Rập, chính sách hiện đại hóa và lập trường phản đế. Nasser chỉ đạo chấn hưng văn hóa Ai Cập và xây dựng những công trình lớn như Đập Aswan và thành phố Helwan. Tuy nhiên, ông bị chỉ trích là độc tài, xâm phạm quyền con người và để cho quân đội chi phối chính trị mà hậu quả là Ai Cập tới nay vẫn chịu sự kiểm soát hầu như liên tục của chế độ quân quản.

Đầu đời

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Gamal_Abdel_Nasser.jpg|thế=A boy wearing a jacket, a white shirt with a black tie and a fez on his head|trái|nhỏ|Nasser vào năm 1931 Gamal Abdel Nasser Hussein sinh vào ngày 15 tháng 1 năm 1918 ở thành phố Alexandria, Ai Cập. Bố là nhân viên bưu điện, sinh ở thị trấn Beni Mur, vùng Thượng Ai Cập. và lớn lên ở Alexandria. Hai người kết hôn vào năm 1917.

Nasser và gia đình thường xuyên chuyển nhà theo bố đi làm. Năm 1921, Nasser chuyển tới thành phố Asyut. Năm 1923, gia đình chuyển tới thị trấn Khatatba, ở đó bố của Nasser làm quản lý bưu điện. Nasser đi học tiểu học ở trường dành cho con cái của nhân viên ngành đường sắt. Năm 1924, gia đình gửi Nasser đến sống với bác ở Cairo và đi học ở trường tiểu học Nahhasin.

Nasser hay viết thư về cho mẹ và về thăm gia đình vào các ngày lễ. Từ cuối tháng 4 năm 1926, Nasser không còn thấy hồi âm nữa. Vào một dịp Nasser về Khatatba, tin dữ mới vỡ lở là mẹ đã mất sau khi sinh em trai mà gia đình đã giấu bấy lâu nay. Việc bố của Nasser lấy vợ mới sau chưa đầy một năm chỉ như xát muối vào vết thương. Về sau, Nasser nói rằng "mất mẹ tôi như vậy để lại trong lòng tôi một vết thương mà thời gian không thể hàn gắn".

Năm 1928, Nasser lên Alexandria sống với ông ngoại và đi học ở trường tiểu học Attarin. Ở Quảng trường Manshia, người dân biểu tình đòi trục xuất thực dân khỏi Ai Cập sau khi hiến pháp Ai Cập bị hủy bỏ. Nasser bị bắt giam một đêm rồi được bố bảo lãnh ra. Nhà sử học James Jankowski nhận định, việc tham gia nhóm Áo Xanh và biểu tình "đã làm Nasser thấm nhuần lòng tự tôn dân tộc mãnh liệt". liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Al-Gihad's_mention_of_Nasser,_1935.jpg|nhỏ|Tên của Nasser trên tờ báo Al-Gihad Năm 1933, Nasser theo bố lên Cairo và chuyển đến trường trung học al-Nahda al-Masria. Nasser tham gia diễn kịch và viết báo ở trường, có đăng một bài luận về nhà triết học Pháp Voltaire tiêu đề là "Voltaire, Con người Tự do". Ngày 13 tháng 11 năm 1935, Nasser tổ chức một nhóm học sinh biểu tình phản đối phát ngôn của bộ trưởng bộ ngoai giao Anh Samuel Hoare vào bốn ngày trước rằng sẽ không có chuyện khôi phục hiến pháp Ai Cập. Ngày 12 tháng 12, vua Farouk giáng chỉ khôi phục hiến pháp. Nasser phản đối mạnh mẽ điều ước Anh – Ai Cập năm 1936 cho phép Anh tiếp tục đóng quân ở Ai Cập, Nasser bất bình trước tầng lớp sinh ra đã ngậm thìa vàng. Lúc rảnh việc, Nasser hay đọc sách, nhất là vào năm 1933 khi ông ở gần Thư viện Quốc gia Ai Cập. Nasser đọc Kinh Qur'an, các lời dạy của Muhammad, tiểu sử các đệ tử Muhammad

Nasser đi theo chủ nghĩa dân tộc Ai Cập truyền lại từ chính khách Mustafa Kamel, nhà thơ Ahmed Shawqi Một nguồn cảm hứng đặc biệt là cuốn tiểu thuyết Return of the Spirit của nhà văn người Ai Cập Tawfiq al-Hakim, ông viết rằng nhân dân Ai Cập chỉ cần "một người có thể thấu hiểu tâm tình, nguyện vọng của họ và làm kim chỉ nam cho mục tiêu của họ". nhưng bị đánh hỏng do có tiền án biểu tình trong hồ sơ. Ông ghi danh vào trường luật thuộc Đại học Vua Fuad (nay là Đại học Cairo) Nguyên nhân là Nasser say mê sự nghiệp các anh hùng dân tộc mà ông đọc trong sách vở nên tự bảo mình phải vào binh nghiệp.

Lần này, Nasser gặp phó bộ trưởng bộ chiến tranh Ibrahim Khairy Pasha, Thời gian ở học viện, Nasser chuyên cần học tập, chẳng mấy khi liên lạc với gia đình. Nasser kết bạn với Abdel Hakim Amer và Anwar Sadat, về sau đều là trợ thủ đắc lực khi Nasser làm tổng thống. liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Nasser_with_comrades,_1940.jpg|thế=Two seated men in military uniform and wearing fez hats|trái|nhỏ|Nasser (giữa) và Ahmed Mazhar (trái) trong quân đội, năm 1940 Năm 1941, Nasser được bố trí ở Khartoum, Sudan, bấy giờ thuộc Ai Cập. Nasser về lại Ai Cập vào tháng 9 năm 1942 rồi được tuyển làm giảng viên ở Học viện Quân sự Hoàng gia Cairo vào tháng 5 năm 1943. mong rằng Anh sẽ gặp "đại họa". Amer làm liên lạc cho Nasser và các thành viên của nhóm, ngoài ra tiếp tục tìm những sĩ quan cùng chí hướng trong quân đội và lập hồ sơ từng người cho Nasser.

Chiến tranh Ả Rập – Israel năm 1948

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Nasser_at_Faluja_Palestine.png|thế=Eight men in dressed in military fatigues standing before an organized assembly of weapons, mostly rifles and mortar. The first man from the left is not wearing a hat, while the remaining seven are wearing hats.|phải|nhỏ|Nasser (thứ nhất bên trái) cùng với đơn vị ở làng Faluja, cầm vũ khí thu giữ được từ quân lính Israel trong chiến tranh năm1948. Chiến tranh Ả Rập – Israel năm 1948 là lần đầu Nasser tham chiến. Ban đầu, Nasser tình nguyện xin phục vụ với Cao Ủy ban Ả Rập do Amin al-Husseini nhưng bị chính phủ Ai Cập từ chối không rõ lý do, mặc dù ông gây ấn tượng tốt với al-Husseini.

Sau khi Anh kết thúc ủy trị Palestine vào tháng 5 năm 1948, Ai Cập đem quân đội vào đánh Israel. Nasser là sĩ quan tham mưu của tiểu đoàn bộ binh 6. Thời gian tham chiến, ông nhận thấy quân đội Ai Cập thiếu sự chuẩn bị, viết rằng "quân ta va phải công sự của quân địch". quân Israel gọi ông là "mãnh hổ xứ Sudan"). Nasser giao tranh bị thương nhẹ vào ngày 12 tháng 7. Tháng 8, lữ đoàn của Nasser bị quân Israel cô lập nhưng quyết không đầu hàng mặc dù cầu viện Jordan bất thành. Trên bàn đàm phán, Ai Cập đồng ý nhượng lại Faluja cho Israel.

Sau chiến tranh, Nasser tiếp tục đóng ở làng Faluja. Ông đồng ý bàn giao thi thể của 67 quân nhân Israel thuộc "Đại đội Chúa" cho phái đoàn Israel do giáo sĩ Shlomo Goren dẫn đầu. Nasser đi cùng Goren và ra lệnh cho quân lính Ai Cập đứng nghiêm. Hai người trao đổi vài lời, Goren nói rằng sau khi giải thích cái hộp Tefillin trên người của các quân nhân Israel là gì thì Nasser "thấu hiểu được dũng khí của họ". Trong một cuộc phỏng vấn trên truyền hình Israel vào năm 1971, Goren nói rằng hai người đã hẹn gặp lại ngày hòa bình.

Ca sĩ người Ai Cập Umm Kulthum tổ chức một buổi ca nhạc mừng các sĩ quan về nước mặc dù chính phủ Ai Cập bị Anh gây sức ép ngăn sự kiện này diễn ra. Thấy rằng chính phủ xa rời quần chúng khiến Nasser càng quyết tâm lật đổ chế độ quân chủ. Ông cũng tức tối rằng đơn vị của ông không được vỗ về tuy đã chứng tỏ ý chí kiên cường. Thời gian bị cô lập ở Faluja, Nasser khởi thảo cuốn Philosophy of the Revolution (Lẽ cách mạng).

Sau chiến tranh, Nasser tiếp tục làm giảng viên ở Học viện Quân sự Hoàng gia. Tháng 10 năm 1948, ông phái người đi liên kết với Hội Anh em Hồi giáo nhưng sớm đổi ý do nhận ra rằng chương trình tôn giáo của Hội Anh em Hồi giáo không hợp với đường lối chủ nghĩa dân tộc của ông. Nasser giữ liên lạc với Hội Anh em Hồi giáo nhưng không cho ảnh hưởng đến hàng ngũ của ông.

Cách mạng

Hội Sĩ quan Tự do

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Free_Officers,_1953.jpg|thế=Eight men in dressed in military uniform, posing in a room around a rectangular table. All the men, except for third and fifth persons from the left are seated. The third and fifth person from the left are standing.|phải|nhỏ|Hội Sĩ quan Tự do sau cuộc đảo chính, năm 1953. Ngược chiều kim đồng hồ: Zakaria Mohieddin, Abdel Latif Boghdadi, Kamel el-Din Hussein (đứng), Nasser (ngồi), Abdel Hakim Amer, Mohamed Naguib, Youssef Seddik và Ahmad Shawki. Cùng lúc Nasser trở về Ai Cập, Husni al-Za'im dựa vào dư luận gây chính biến lật đổ chính phủ ở Syria, khích lệ tinh thần cách mạng của Nasser. Về chưa được bao lâu thì Nasser bị thủ tướng Ibrahim Abdel Hadi gọi lên truy hỏi về nghi vấn ông tập hợp một nhóm sĩ quan phản loạn. Nasser thuyết phục thủ tướng rằng ông chẳng biết gì về việc đó và được thả, một phần là nhờ có tổng tham mưu trưởng có mặt ở buổi tra hỏi nên Abdel Hadi không muốn hỏi vặn một sĩ quan. Nasser quyết định đẩy nhanh tiến độ âm mưu. Trùng hợp là những đảng viên Wafd bắt đầu bị cáo buộc tham nhũng nên thế lực chính trị của Hội Sĩ quan Tự do dâng lên. Khaled Mohieddin, thành viên của Hội Sĩ quan Tự do cho biết "chỉ Nasser biết rõ về hành tung và danh tính của tất cả các hội viên". Trong gần hai năm tiếp theo, Nasser chỉ vận động kết nạp thành viên mới và làm liên lạc ngầm do thấy rằng thời cơ chưa chín muồi.

Ngày 11 tháng 10 năm 1951, chính phủ Wafd hủy bỏ điều ước Anh – Ai Cập năm 1936 Tháng 1 năm 1952, Nasser và Hassan Ibrahim phục kích xe của tướng bảo hoàng Hussein Sirri Amer ở Cairo bằng súng tiểu liên Naguib đắc cử tuyệt đại đa số, Hội Sĩ quan Tự do nhờ tờ nhật báo lớn al-Misri đăng bài tuyên truyền về sự thắng cử của Naguib và ca ngợi tinh thần yêu nước của quân đội.

Mục tiêu của Hội Sĩ quan Tự do là lập lại nền dân chủ đại nghị chứ không phải cướp chính quyền. Nasser đưa Naguib lên làm "sếp" của cuộc đảo chính trên danh nghĩa bởi vì ông cho rằng nhân dân Ai Cập sẽ không chấp nhận một sĩ quan cấp thấp như ông làm lãnh đạo. Ngày 22 tháng 7, Hội Sĩ quan Tự do tiếp quản các cơ quan nhà nước, trạm phát thanh, đồn cảnh sát và trụ sở quân đội ở Cairo. Nasser mặc thường phục đi vi hành quanh Cairo. Hoa Kỳ và Anh đồng ý đứng bên lề.

Ngày 18 tháng 6 năm 1953, chế độ quân chủ bị thủ tiêu, nhà nước cộng hòa được thành lập, Naguib lên làm tổng thống. Hội Sĩ quan Tự do thành lập Hội đồng Lãnh đạo Cách mạng (HĐLĐCM), Naguib làm chủ tịch, Nasser phó chủ tịch. Nguyên thủ tướng Ali Maher được phục chức. Tuy nhiên, Maher phản đối chương trình của Nasser—cải cách ruộng đất, thủ tiêu quân chủ, cải tổ chính đảng—là quá cấp tiến nên từ chức vào ngày 7 tháng 9. Naguib kiêm luôn chức thủ tướng, Nasser làm phó thủ tướng. Tháng 9, chính phủ cách mạng ban hành luật cải cách ruộng đất.

Trước đó vào tháng 8 năm 1952, phe cộng sản kích động công nhân các nhà máy dệt ở thành phố Kafr el-Dawwar bạo động, bị quân đội trấn áp làm chín người thiệt mạng. Hai đầu sỏ của cuộc bạo động bị xử tử mặc dù Nasser phản đối. Hội Anh em Hồi giáo ủng hộ hành hình giống như phần lớn HĐLĐCM và xin được đứng đầu bốn bộ trong chính phủ mới. Nasser chỉ cho hai thành viên được giữ những chức vụ nhỏ trong nội các trên tư cách không đảng phái nhằm vô hiệu hóa Hội Anh em Hồi giáo. thành lập Phong trào Giải phóng làm đảng cầm quyền duy nhất có nhiệm vụ vận động nhân dân ủng hộ chính quyền, mặc cho Naguib phản đối. Nasser làm tổng thư ký của Phong trào Giải phóng. Tuy nhiên, sĩ quan Abdel Latif Boghdadi cho biết Nasser cũng là thành viên duy nhất của HĐLĐCM ủng hộ tổ chức bầu cử quốc hội; Nasser vẫn đề nghị tổ chức bầu cử vào năm 1956.

Một khi Naguib bắt đầu tỏ lập trường độc lập như thái độ lãnh đạm với chính sách cải cách ruộng đất và tiếp cận các lực lượng chính trị cũ như Đảng Wafd và Hội Anh em Hồi giáo, Nasser quyết định hạ bệ ông. Tháng 6, Sulayman Hafez, bộ trưởng bộ nội vụ thân Naguib bị cách chức. Nasser bắt quản thúc Naguib vào hôm sau và được HĐLĐCM bầu làm chủ tịch và thủ tướng. Tuy nhiên, Naguib đã dự liệu tình huống này và ngay lập tức có binh biến đòi phục chức ông, giải tán HĐLĐCM. nhưng phe sĩ quan ủng hộ Nasser tập kích tổng bộ quân đội, khống chế được phe binh biến vào ngày 27 tháng 2. Cùng ngày, hàng trăm nghìn người, phần lớn thuộc Hội Anh em Hồi giáo xuống đường biểu tình đòi phục chức Naguib, bỏ tù Nasser. Một phe trong HĐLĐCM do Khaled Mohieddin đứng đầu cũng yêu cầu thả Naguib và cho ông khôi phục chức tổng thống.

Ngày 5 tháng 3, lực lượng an ninh của Nasser bắt giữ hàng nghìn người tham gia biểu tình. một triệu công nhân vận tải đình công, hàng nghìn nông dân lên Cairo biểu tình phản đối vào cuối tháng 3. Naguib yêu cầu trấn áp biểu tình nhưng thủ trưởng các lực lượng an ninh từ chối. Ngày 29 tháng 3, Nasser tuyên bố hủy bỏ sắc lệnh thuận theo "xung động trên đường phố". Từ tháng 4 tới tháng 5, hàng trăm người ủng hộ Naguib trong quân đội bị bắt giữ hoặc cách chức. Mohieddin được phái đi Thụy Sĩ làm đại diện của HĐLĐCM nhưng thực chất là một hình thức lưu vong.

Nhậm chức chủ tịch HĐLĐCM

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Liberation_organization_in_Alexandria_invitation_to_Nasser_speech_26-10-1954.jpg|thế=A letter written in Arabic with the seal of the RCC at the top|nhỏ|Thư mời tham dự buổi phát biểu của Nasser vào ngày 26 tháng 10 năm 1954 nhỏ|Bản ghi âm vụ ám sát hụt Nasser trong khi ông đang phát biểu trước đám đông ở Manshia, [[Alexandria vào năm 1954.]] Ngày 26 tháng 10 năm 1954, Mahmoud Abdel-Latif, thành viên Hội Anh em Hồi giáo ám sát hụt Nasser đương lúc ông phát biểu ở Alexandria ăn mừng Anh rút quân khỏi Ai Cập. Bài phát biểu được phát thanh trên toàn thế giới Ả Rập. Cách Nasser 7.6 m, Abdel-Latif bắn tám viên đạn nhưng đều hụt hết. Dân chúng bỏ chạy tán loạn. Nasser lên giọng trấn an người dân rồi hùng hồn tuyên bố:

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Nasser_and_RCC_members_welcomed_by_Alexandria,_1954.jpg|thế=A man standing in an open-top vehicle and waving to a crowd of people surrounding the vehicle. There are several men seated in the vehicle and in another trailing vehicle, all dressed in military uniform|phải|nhỏ|Nasser được đám đông hoan hô ở Alexandria một ngày sau vụ ám sát hụt, ngày 27 tháng 10 1954. Đám đông gầm lên ủng hộ, thính giả trên khắp thế giới Ả Rập đứng ngồi không yên. Vụ ám sát hụt như gậy ông đập lưng ông đối với đối thủ của Nasser. Sau khi về Cairo, Nasser ra lệnh bắt giữ hàng nghìn người, chủ yếu là thành viên Hội Anh em Hội giáo, kể cả cộng sản và cách chức 140 sĩ quan thân Naguib. Tám lãnh đạo của Hội Anh em Hồi giáo bị hành hình. Naguib bị bắt quản thúc mà không có ai trong quân đội lên tiếng phản đối. Nasser trở thành lãnh đạo đanh thép của Ai Cập.

Tuy nhiên, Nasser vẫn chưa có đủ sự ủng hộ trong quần chúng để duy trì cải cách, củng cố quyền lực nên ông đi khắp Ai Cập diễn thuyết và yêu cầu báo chí nộp bài cho chính quyền kiểm duyệt "nội dung chống phá". Umm Kulthum và Abdel Halim Hafez, hai ca sĩ người Ả Rập hàng đầu đương thời hát ca ngợi Nasser, trong khi đối thủ của ông thì bị bôi nhọ; những cộng sự của ông cho biết chính Nasser tự tổ chức những hoạt động này. Tháng 1 năm 1955, HĐLĐCM bổ nhiệm Nasser làm tổng thống. Ngày 28 tháng 2 năm 1955, quân Israel tấn công Dải Gaza để truy sát quân du kích Palestine. Nasser thấy quân đội Ai Cập chưa đủ sức phản công nên không có phản ứng, làm mất mặt trước dư luận. Nasser siết chặt hạn chế tàu bè Israel qua Eo biển Tiran và ra lệnh hạn chế vùng trời Vịnh Aqaba đối với máy bay Israel vào đầu tháng 9. nên quay sang mua từ Khối Liên Xô: ngày 27 tháng 9, Ai Cập ký một thỏa thuận vũ khí 320.000.000 đô la Mỹ với Tiệp Khắc. Trên đường đến Bandung, Nasser có thăm Pakistan, Ấn Độ, Miến Điện và Afghanistan và đã ký hiệp ước hữu nghị với Ấn Độ ở Cairo vào ngày 6 tháng 4.

Nasser làm trung gian thảo luận giữa các phe thân Tây, thân Liên Xô và trung lập ở hội nghị. Tranh thủ được sự ủng hộ của Trung Quốc và Ấn Độ, Nasser vận động thành công hội nghị phản đối việc thành lập các hiệp ước liên phòng quốc tế, ủng hộ độc lập cho Tunisia, Algérie, Maroc khỏi Pháp, ủng hộ quyền hồi hương của người Palestine và ủng hộ thi hành các nghị quyết LHQ về xung đột Ả Rập – Israel. Nasser. Thông cáo của hội nghị về chủ nghĩa thực dân ở châu Phi, châu Á và việc xây dựng nền hòa bình toàn cầu giữa Chiến tranh Lạnh mang dấu ấn của Nasser.

Sau Hội nghị Bandung, Nasser ban hành chính sách ngoại giao "trung lập tích cực" theo tổng thống Nam Tư Josip Broz Tito và thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru. Ngày 2 tháng 5, Nasser về Ai Cập, được người dân trên đường phố Cairo đón tiếp nồng nhiệt. Báo chí trong nước ca ngợi sự lãnh đạo của Nasser ở hội nghị và những thành tựu của ông.

Hiến pháp năm 1956 và chức tổng thống

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Nasser_voting_constitutional_referendum.jpg|thế=A man wearing a suit inserting a piece of paper into a box. He is being photographed by cameramen|trái|nhỏ|Nasser bỏ phiếu trưng cầu ý dân về dự thảo hiến pháp, ngày 23 tháng 6 năm 1956 Củng cố được quyền lực trong nước rồi, Nasser gạt các thành viên khác trong HĐLĐCM mà giành được quyền tự quyết các vấn đề, nhất là vấn đề ngoại giao.

Tháng 1 năm 1956, dự thảo hiến pháp Ai Cập được công bố, quy định thành lập chế độ một đảng lấy Liên minh Quốc gia là đảng cầm quyền duy nhất. Nasser gọi Liên minh Quốc gia là "lực lượng nòng cốt để thực hiện cuộc cách mạng của chúng ta". Nasser cho rằng Phong trào Giải phóng đã làm công tác dân vận thất bại nên cải tổ thành Liên minh Quốc gia bằng cách thành lập các ủy ban cấp cơ sở để cho người dân có cơ hội tham gia chính quyền. Liên minh Quốc gia có nhiệm vụ đề cử một ứng cử viên tổng thống cho nhân dân bầu lên. HĐLĐCM tự giải tán, các cựu thành viên xuất ngũ rồi vào chính quyền. Tháng 7 năm 1957, Ai Cập bầu ra Quốc hội gồm 350 đại biểu mà Nasser có toàn quyền quyết định tư cách ứng cử. Nasser thành lập nội các mà chỉ trọng dụng những vây cánh thân cận nhất của ông trong khi gạt bỏ những đối thủ trong Hội Sĩ quan Tự do.

Được tin trên đường bay từ Belgrade về Cairo, Nasser cảm thấy như bị xúc phạm nặng. Nhà báo Mohamed Hassanein Heikal khẳng định Nasser ra quyết định quốc hữu hóa Kênh đào Suez trong 24 giờ tuy đã cân nhắc từ khi Anh đồng ý rút quân khỏi Ai Cập. Nasser nói rằng ông ra quyết định vào ngày 23 tháng 7, sau khi bắt đầu nghiên cứu vấn đề, thảo luận với Boghdadi và Mahmoud Younis từ ngày 21. Những cựu thành viên khác của HĐLĐCM được thông báo quyết định vào ngày 24, trong khi phần lớn nội các chỉ được biết một vài tiếng trước khi Nasser công bố.

Ngày 26 tháng 7 năm 1956, Nasser ở Alexandria tuyên bố quốc hữu hóa Công ty Kênh đào Suez để tài trợ xây dựng Đập Aswan. Trong bài phát biểu, Nasser lên án chủ nghĩa đế quốc Anh ở Ai Cập và việc lợi nhuận từ kênh đào chỉ chảy về tay Anh, khẳng định nhân dân Ai Cập có chủ quyền đối với con kênh đào bởi vì "120.000 dân Ai Cập đã thiệt mạng mà đào nó". Về mặt pháp lý thì Nasser vi phạm hiệp định mà Ai Cập ký với Anh vào ngày 19 tháng 10 năm 1954 nhưng Nasser bảo đảm các cổ đông sẽ được chính quyền mua lại cổ phần.

Đám đông không nén nổi xúc động, trên toàn thế giới Ả Rập hàng nghìn người xuống đường biểu tình ủng hộ. Đai sứ Hoa Kỳ Henry A. Byroade cho biết, "nói rằng quyết định quốc hữu hóa Công ty Kênh đào Suez được đông đảo dân Ai Cập ủng hộ, kể cả đối thủ của Nasser, thật chẳng phải là sự cường điệu". Nhà chính trị học người Ai Cập Mahmoud Hamad nhận định, trước năm 1956 Nasser chỉ kiểm soát bộ máy nhà nước và quân đội nhưng chính nhờ quốc hữu hóa con kênh đào mà ông tranh thủ được gần như toàn bộ nhân dân và biến bản thân thành "vị lãnh đạo lôi cuốn" và "người phát ngôn của quần chúng Ai Cập và toàn thể Thế giới thứ ba". Aburish cho rằng đây là thành tựu liên Ả Rập lớn nhất của Nasser; "hình của Nasser bắt đầu xuất hiện ở những trại tại Yemen, những chợ tại Marrakesh và những biệt thự sang trọng tại Syria". nhưng ước tính Anh sẽ không động binh ít nhất hai tháng, còn khả năng Israel can thiệp vào là "không thể". Đầu tháng 10, Hội đồng Bảo an LHQ thông qua nghị quyết thừa nhận chủ quyền của Ai Cập đối với Kênh đào Suez miễn là tàu bè nước ngoài vẫn được sử dụng. Heikal cho rằng sau nghị quyết, "Nasser ước tính nguy cơ xâm lược chỉ còn 10%". Tuy nhiên, Anh, Pháp và Israel lập mật ước chiếm lại Kênh đào Suez và lật đổ Nasser.

Ngày 29 tháng 10 năm 1956, quân Israel tiến vào Bán đảo Sinai, các đồn quân đội Ai Cập thất thủ. Hai ngày sau, không quân Anh và Pháp bắn phá những sân bay quanh con kênh đào. Nasser ra lệnh bộ tư lệnh rút quân khỏi Sinai về cố thủ con kênh đào, lo sợ rằng nếu để quân Ai Cập giao chiến với quân Israel ở Sinai mà quân Anh và Pháp chiếm được Port Said thì quân lính sẽ bị cắt đứt đường lui mà bị đại phá. Amer phản đối kịch liệt và đòi đem xe tăng ra đánh quân Israel 5.000 bị quân Israel bắt làm tù binh. Amer và Salah Salem xin Nasser yêu cầu ngừng bắn, Salem thậm chí khuyên Nasser đầu hàng quân Anh. Nasser mắng Amer và Salem rồi thề rằng "sẽ không có một ai đầu hàng". Mặc dù Sinai bị chiếm đóng, uy tín của Nasser trong nước và trên thế giới Ả Rập vẫn giữ nguyên. Để bù vào công lực kém kỏi của quân đội, Nasser ra lệnh cấp khoảng 400.000 khẩu súng trường cho thường dân và thành lập hàng trăm dân quân, chủ yếu do đối thủ của Nasser chỉ huy.

Nasser coi trận giao tranh ở Port Said là tiêu điểm chiến lược, tâm lý của việc phòng thủ Ai Cập. Nasser đem thêm một tiểu đoàn thứ ba và hàng trăm vệ binh quốc gia đến tiếp viện thành phố, hai đại đội được giao nhiệm vụ tổ chức kháng chiến trong quần chúng. Nasser ra lệnh cấm tư lệnh quân đội tại thành phố yêu cầu ngừng bắn. Liên quân Anh – Pháp chiếm được thành phố vào ngày 7. Nasser khen Eisenhower là đã có "vai trò quyết định" trong việc chặn đứng "âm mưu của liên quân ba nước". Anh và Pháp rút hết quân vào cuối tháng 12, Israel rút quân xong vào tháng 3 năm 1957 và thả hết tù binh Ai Cập. Sau cuộc khủng hoảng, Ai Cập ban hành một loạt quy định siết chặt các điều kiện cư trú, quốc tịch, chủ yếu nhắm vào người Anh, Pháp, Do Thái có quốc tịch nước ngoài và Ai Cập gốc Do Thái. Hậu quả là khoảng 25.000 người Do Thái, gần như một nửa cộng đồng người Do Thái ở Ai Cập di cư đến Israel, châu Âu, Hoa Kỳ và Nam Mỹ vào năm 1956.

Sau khi cuộc khủng hoảng kết thúc, Amer trách Nasser là đã gây chiến vô bổ rồi đổ thất bại cho quân đội. Ngày 8 tháng 4, Kênh đào Suez mở cửa lại. Nhờ thắng liên quân xâm lược, Nasser tăng cường địa vị chính trị của ông. Nhà ngoại giao Anh Anthony Nutting nhận định, cuộc khủng hoảng đã biến Nasser thành rayyes (tổng thống) của Ai Cập.

Chủ nghĩa liên Ả Rập và chủ nghĩa xã hội

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Arab_Defense_Pact_Signing_1957.jpg|thế=Five men standing side by side behind a table with documents on it. All the men are wearing suits and ties, with the exception of the man in the middle, who is wearing a traditional robe and headdress. There are three men standing behind them.|phải|nhỏ|Buổi ký hiệp ước liên phòng khu vực giữa Ai Cập, Ả Rập Xê Út, Syria và Jordan, tháng 1 năm 1957. Đứng trước, từ trái sang phải: Thủ tướng Jordan Sulayman al-Nabulsi, Vua Jordan Hussein, Vua Ả Rập Xê Út Saud, Nasser, Thủ tướng Syria Sabri al-Asali Từ năm 1957, chủ nghĩa liên Ả Rập là hệ tư tưởng chủ đạo của thế giới Ả Rập. Người Ả Rập công nhận Nasser là vị lãnh đạo của họ. Nhà sử học Adeed Dawisha cho rằng Nasser nổi tiếng là nhờ "sức lôi cuốn của ông mà thắng lợi trong Khủng hoảng Kênh đào Suez chỉ càng củng cố". Ảnh hưởng của Nasser được Đài Tiếng nói Ả Rập ở Cairo phát thanh đi khắp thế giới Ả Rập, đến nỗi nhà sử Eugen Rogan phải thừa nhận rằng "Nasser chinh phục thế giới Ả Rập trên sóng phát thanh". Những người ủng hộ Nasser ở Liban và đại sự quán Ai Cập ở Beirut mua lại những phương tiện truyền thông Liban để truyền bá tư tưởng của Nasser. Ai Cập biệt phái hàng nghìn chuyên gia người Ai Cập (thường là giáo viên tham gia chính trị) đến những nước khác trong khu vực. Những tổ chức bán quân sự ở các nước Ả Rập cũng ủng hộ Nasser. Tuy không có sự tổ chức, những người ủng hộ Nasser vừa đông vừa có điều kiện tài chính.

Tháng 1 năm 1957, Hoa Kỳ định ra Học thuyết Eisenhower, cam kết sẽ chặn đứng cộng sản bành trướng ở Trung Đông. Nasser phản đối chủ nghĩa cộng sản nhưng ủng hộ chủ nghĩa liên Ả Rập nên bị những nước Ả Rập thân Tây xem là mối nguy hại. Hoa Kỳ nỗ lực cô lập Nasser bằng cách lăng xê cho Vua Ả Rập Xê Út Saud. Tháng 1, Jordan tham gia một hiệp ước quân sự với Ai Cập, Syria và Ả Rập Xê Út.

Từ tháng 4, quan hệ giữa Nasser và Vua Jordan Hussein xấu đi sau khi Hussein tố Nasser giật dây hai vụ đảo chính hụt ông tuy không đưa ra bằng chứng rõ ràng và giải tán nội cách của thủ tướng Sulayman al-Nabulsi vốn ủng hộ Nasser. Nasser lên đài phát thanh ở Cairo lên án Hussein là "công cụ của lũ đế quốc". Quan hệ của Nasser với Vua Saud cũng xấu đi bởi Vua Saud cho rằng tiếng tăm của Nasser ở Ả Rập Xê Út đe dọa sự sống còn của Nhà Saud. Công dân của những nước Ả Rập tiếp tục ủng hộ Nasser mặc cho sự không hài lòng của chính phủ những nước đó.

Từ cuối năm 1957, Nasser quốc hữu hóa những tài sản còn lại của Anh và Pháp ở Ai Cập, bao gồm ngành thuốc lá, xi măng, dược phẩm và phosphat. Các nhà đầu tư nước ngoài không chịu bỏ vốn vào Ai Cập nữa nên Nasser quốc hữu hóa thêm những công ty khác nhưng thành phần kinh tế tư nhân vẫn chiếm 2/3 nền kinh tế. Chính sách quốc hữu hóa cải thiện sản xuất nông nghiệp và mức đầu tư vào công nghiệp. Nasser thành lập nhà máy thép Helwan, về sau trở thành công ty lớn nhất của Ai Cập. Ngoài ra, Nasser quyết định hợp tác với Liên Xô để có tài chính xây dựng Đập Aswan. Tháng 9, quân lính Thổ Nhĩ Kỳ tập trung dọc theo biên giới Syria, có vẻ như xác minh tin đồn rằng các nước thuộc Tổ chức Hiệp ước Trung Đông có âm mưu xâm lược lật đổ chính phủ cánh tả của Syria. Nasser phái một lực lượng dự phòng đến Syria để thể hiện tình đoàn kết, lại càng gia tăng uy tín của ông, nhất là đối với dân Syria. Ban đầu Nasser từ chối vì bốn lý do: thứ nhất là chế độ chính trị, kinh tế của hai nước không tương thích; thứ hai là lãnh thổ của hai nước không tiếp giáp nhau; thứ ba là quân đội Syria có tiền lệ can thiệp vào chính trị; thứ tư là các lực lượng chính trị Syria hay chia bè phái. Tuy nhiên, một phái đoàn thứ hai thuyết phục được Nasser vào tháng 1 năm 1958 rằng phe cộng sản mà cướp chính quyền thì sẽ có nội loạn. Ngày 1 tháng 2, Cộng hòa Ả Rập Thống nhất được thành lập, Nasser làm tổng thống. Dawisha viết rằng phản ứng của thế giới Ả Rập là "kinh ngạc rồi hạnh phúc không thể kiềm chế". Nasser ra lệnh đàn áp cộng sản ở Syria, cách chức nhiều người. liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Presidents_Gamal_Abdul_Nasser_and_Shukri_al-Quwatli_receiving_Yemeni_Crown_Prince_Mohammad_Badr_in_Damascus_in_February_1958_congratulating_them_on_formation_of_the_United_Arab_Republic.jpg|thế=Three men sitting next to each other, two of whom are wearing suits and ties, with the man in the middle wearing a traditional robe and headdress.|trái|nhỏ|Nasser ngồi cạnh Thái tử Vương quốc Yemen Muhammad al-Badr (giữa) và Shukri al-Quwatli (phải), tháng 2 năm 1958. Vương quốc Yemen gia nhập CHARTN, tạo thành [[Hợp chúng quốc Ả Rập.]] Ngày 24 tháng 2, Nasser bất ngờ thăm Damascus để ăn mừng thành lập CHARTN, được hàng trăm nghìn người đón tiếp. Vương quốc Yemen cử Thái tử Imam Badr đến Damascus đề nghị Nasser cho Vương quốc Yemen gia nhập. Nasser đồng ý thành lập Hợp chúng quốc Ả Rập làm một liên hiệp thay vì hợp nhất hoàn toàn. Vua Saud lợi dụng việc Nasser ở Syria để lên âm mưu ám sát ông trên đường bay về Cairo. Tuy nhiên, bộ trưởng bộ nội vụ Syria Abdel Hamid Sarraj, người mà Ả Rập Xê Út đưa tiền để bắn hạ máy bay của Nasser lại nhiệt liệt ủng hộ Nasser. Ngày 4 tháng 3, Nasser giơ tờ séc mà Sarraj nhận từ Ả Rập Xê Út trước đám đông ở Damascus. Do bị lật tẩy nên Vua Saud bị những thành viên lớn tuổi trong hoàng tộc buộc nhường lại hầu hết quyền lực cho anh trai Vua Faisal. Vua Faisal phản đối Nasser và chủ trương thống nhất thế giới Ả Rập theo Hồi giáo thay vì chủ nghĩa dân tộc. liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Nasser_in_Moscow.jpg|nhỏ|201x201px|Nasser được [[Nikita Sergeyevich Khrushchyov|Nikita Khrushchev tặng thưởng huân chương ở Moskva, năm 1958.]] Một ngày sau khi âm mưu ám sát bại lộ, Nasser ban hành hiến pháp lâm thời, thành lập quốc hội mới gồm 600 đại biểu (400 từ Ai Cập, 200 từ Syria) và giải tán tất cả các chính đảng.

Ảnh hưởng đối với thế giới Ả Rập

Ở Liban xảy ra khủng hoảng do xung đột giữa phe ủng hộ Nasser và phe chống Nasser do tổng thống Camille Chamoun lãnh đạo: phe thân Nasser đòi gia nhập CHARTN, phe chống Nasser chủ trương Liban tiếp tục độc lập. Nasser không ham Liban mà xem là "trường hợp đặc biệt", giao Sarraj giải quyết vấn đề sao cho Chamoun không được tái cử nhiệm kỳ thứ hai. Sarraj cung cấp tiền bạc, vũ khí nhẹ và đào tạo cho phe thân Nasser nhưng không ở quy mô lớn mà Chamoun tố cáo. Ở Oman, Nasser ủng hộ phiến quân hoạt động trong khu vực nội địa chống lại chính phủ do Anh ủng hộ từ năm 1954 tới năm 1959. liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Negotiations_between_Chehab_and_Nasser.jpg|thế=Two men standing side by side in the forefront, wearing overcoats. Behind them are several men in military uniform or suits and ties standing and saluting or making no gestures.|trái|nhỏ|Nasser (phải) và tổng thống Liban [[Fuad Chehab (đứng bên phải Nasser) ở biên giới Syria –Liban đàm phán chấm dứt khủng hoảng ở Liban, tháng 3 năm 1959.]] Ngày 14 tháng 7 năm 1958, hai sĩ quan Iraq Abd al-Karim Qasim và Abdul Salam Arif gây chính biến lật đổ chế độ quân chủ Iraq. Toàn bộ hoàng tộc Iraq bị sát hại. Hôm sau, thủ tướng Iraq Nuri al-Said, địch thủ chính của Nasser trong thế giới Ả Rập bị giết. Xác của al-Said và thái tử Abd al-Ilah bị kéo đi khắp Baghdad. Nasser thừa nhận chính phủ mới và tuyên bố rằng "tấn công vào Iraq là tấn công vào CHARTN". Ngày 15 tháng 7, lính thủy đánh bộ Hoa Kỳ đổ bộ Liban, đặc công Anh đổ bộ Jordan theo yêu cầu của hai nước để đề phòng các lực lượng thân Nasser. Nasser cho rằng cuộc cách mạng ở Iraq đã dọn đường cho sự thống nhất Ả Rập. Ngày 19 tháng 7, Nasser lần đầu tiên tuyên bố ủng hộ liên hiệp Ả Rập nhưng không dự định hợp nhất Iraq với CHARTN. Tuy phần lớn các thành viên Hội đồng Lãnh đạo Cách mạng Iraq ủng hộ hợp nhất nhưng Qasim muốn duy trì độc lập và không thích việc nhiều dân Iraq ủng hộ Nasser.

Mùa thu năm 1958, Nasser thành lập một ủy ban gồm Zakaria Mohieddin, al-Hawrani và Salah Bitar có nhiệm vụ quản lý Syria. Dụng tâm của Nasser là điều động al-Hawrani và Bitar về Cairo để cô lập ảnh hưởng đối với Syria mà hai người đều thuộc Đảng Ba'ath. Nasser giao Syria cho Sarraj quản lý. Sarraj biến Syria thành nhà nước cảnh sát, bỏ tù, trục xuất cộng sản và những địa chủ phản đối cải cách ruộng đất. liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Nasser_addressing_Damascus,_1960.jpg|thế=The back of a man waving to the throng below|phải|nhỏ|Nasser vẫy tay chào đám đông ở Damascus, Syria, tháng 10 năm 1960 Ngày 9 tháng 3, Qasim ra lệnh trấn áp một cuộc nổi dậy ở Mosul do Abd al-Wahab al-Shawaf, một sĩ quan thân Nasser trong Hội đồng Lãnh đạo Cách mạng Iraq phát động hôm trước, được CHARTN ủng hộ. Nasser quyết định không đưa viện binh nhưng ra lệnh bắt giam những phần tử cộng sản ở Ai Cập do Qasim dựa vào cộng sản mà cầm quyền. Một trong những người bị bắt giam là Khaled Mohieddin, đồng chí lâu năm của Nasser.

Từ tháng 12, tình hình chính trị ở Syria ngày càng bất ổn. Nasser bổ nhiệm Amer làm toàn quyền của Syria trợ giúp cho Sarraj. Nhiều cán bộ của Syria từ chức vì không bằng lòng với quyết định bổ nhiệm. Trong một buổi gặp những lãnh đạo đối lập của Syria, Nasser tuyên bố rằng ông là tổng thống của CHARTN, ai mà phản đối ông thì có thể từ chức. của Syria, cụ thể là giới lãnh đạo kinh tế xã hội, chính trị và quân đội ngày càng yêu cầu Syria rời khỏi CHARTN. Trước tình hình kinh tế suy thoái mà Nasser đổ cho tư sản, ông ra lệnh quốc hữu hóa nhiều ngành kinh tế Syria vào tháng 7 năm 1961. Nasser cách chức Sarraj để cố ổn định tình hình chính trị. Aburish nhận định rằng Nasser không thể giải quyết vấn đề Syria do Syria là "xa lạ đối với ông". Tình hình kinh tế ở Ai Cập khả quan hơn: tăng trưởng GNP đạt 4,5%, công nghiệp phát triển nhanh. Năm 1960, Nasser quốc hữu hóa báo chí Ai Cập, vốn dĩ hợp tác với chính quyền, để định hướng tin tức về tình hình kinh tế xã hội của đất nước và vận động nhân dân ủng hộ chính sách xã hội chủ nghĩa của ông.

Ngày 28 tháng 9 năm 1961, những đơn vị quân đội ủng hộ ly khai gây binh biến ở Damascus, tuyên bố Syria rời khỏi CHARTN. Ngay lập tức những đơn vị trung thành ở miền bắc Syria phản lại, biểu tình ủng hộ Nasser nổ ra ở những thành phố lớn. Nasser đem đặc công đến Latakia tiếp viện nhưng rút chỉ sau hai ngày do không muốn gây cuộc tương tàn giữa người Ả Rập. Ngày 5 tháng 10, Nasser tuyên bố chấp nhận trách nhiệm về sự tan rã của CHARTN và cam kết Ai Cập sẽ thừa nhận chính phủ Syria mới. Ở hậu trường thì Nasser quy trách nhiệm cho những nước Ả Rập thù địch can thiệp vào nội bộ. Ngày 30 tháng 9, Nasser đồng ý viện trợ quân sự cho Sallal chống lại al-Badr của chế độ cũ được Ả Rập Xê Út ủng hộ. Hậu quả là Ai Cập tham gia vào cuộc Nội chiến Vương quốc Yemen: 60.000 quân lính Ai Cập được điều đến Yemen vào tháng 3 năm 1966. Tháng 8 năm 1967, Nasser rút 15.000 quân lính khỏi Yemen để bù thương vong trong Chiến tranh Sáu Ngày. Ở hội nghị thượng đỉnh của Liên đoàn Ả Rập cùng tháng, Ai Cập tuyên bố sẵn sàng rút quân khỏi Vương quốc Yemen; quân lính Ai Cập cuối cùng rời khỏi Yemen vào cuối năm 1967.

Tháng 7 năm 1962, Algérie giành được độc lập từ Pháp.

Ngày 8 tháng 2 năm 1963 xảy ra binh biến ở Iraq, Qasim bị bắn chết, Abdul Salam Arif lên làm tổng thống, là một người ủng hộ Nasser. Ngày 8 tháng 3, chính phủ Syria cũng bị lật đổ. Ngày 14 tháng 3, Iraq và Syria cử phái đoàn tới Ai Cập yêu cầu Nasser thành lập một liên hiệp Ả Rập mới. Ở cuộc họp với phái đoàn, Nasser trách phe Ba'ath trong chính phủ Syria là đã "tạo điều kiện" cho Syria ly khai khỏi CHARTN và khẳng định rằng ông là "lãnh đạo của dân Ả Rập". Ngày 17 tháng 4, các bên ký một hiệp định chuyển tiếp quy định thành lập liên hiệp mới vào tháng 5 năm 1965 theo chế độ liên bang. Tuy nhiên, chỉ một vài tuần sau thì những sĩ quan Syria ủng hộ Nasser bị phe Ba'ath thanh trừng khỏi chính quyền, sĩ quan Jassem Alwan gây đảo chính ngược thất bại, dẫn tới Nasser lên án phe Ba'ath là "phát xít". Liên hiệp Ả Rập thất bại trước khi thành hình. liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Nasser_and_Sallal_in_Sanaa.jpg|thế=Several men in different clothing standing before a crowd of people.|trái|nhỏ|Nasser dược đám đông Yemen đón tiếp ở [[Sana'a, tháng 4 năm 1964. Người đứng chào trước Nasser là Tổng thống Yemen Abdullah al-Sallal]] Ở hội nghị thượng đỉnh Liên đoàn Ả Rập vào năm 1964, Nasser kêu gọi thế giới Ả Rập thống nhất lập trường về kế hoạch dẫn nước khỏi Sông Jordan của Israel mà Syria và Jordan cho là hành vi gây chiến. Nasser quy trách nhiệm tình hình cho sự chia rẽ giữa các nước Ả Rập. Nasser khuyên Syria và quân du kích Palestine tránh gây hấn với Israel bởi vì ông không chuẩn bị giao chiến với Israel. Nasser tạo mối quan hệ tốt với Vua Hussein và hàn gắn quan hệ với Ả Rập Xê Út, Syria và Maroc. Tháng 5, Nasser cho thành lập Tổ chức Giải phóng Palestine (TCGPP), chính thức là để chia sẻ trách nhiệm lãnh đạo về vấn đề Palestine, Năm 1964, Nasser được bầu làm chủ tịch. Hội nghị thứ hai của Phong trào Không liên kết được tổ chức ở Cairo.

Từ cuối thập niên 50 tới đầu thập niên 60, Nasser có đóng góp quan trọng vào sự nghiệp đoàn kết giữa các nước châu Phi. Từ năm 1962, Nasser nhường lại trách nhiệm lãnh đạo châu Phi cho Algérie. Nasser cho nhiều lãnh đạo phản đế từ nhiều nước châu Phi tị nạn ở Ai Cập và cho phép dùng Cairo làm đài phát thanh tuyên truyền chống thực dân. Nasser đóng vai trò then chốt trong việc thành lập Tổ chức châu Phi Thống nhất vào năm 1963.

Nasser yêu cầu Đại học al-Azhar thay đổi chương trình học như bổ sung môn tiến hóa, cho phép nam nữ học chung. Ngoài ra, Nasser ra lệnh Đại học al-Azhar thừa nhận Hồi giáo Shia, Alawite và Druze là Hồi giáo chính thống mà trước kia bị trường liệt vào "tà đạo". Cuối năm 1961, Nasser thành lập Hội đồng Tổng thống, có nhiệm vụ phê chuẩn bổ nhiệm các chức vụ cao cấp trong quân đội mà trước kia là Amer tự quyết định. Tuy nhiên, Nasser phải khôi phục quyền hạn cho Amer những sĩ quan ủng hộ Amer dọa phản Nasser. Nasser lo sợ chính phủ đụng độ với quân đội thua nên chịu lép vế Amer. Boghdadi cho biết việc CHARTN tan rã và thái độ của Amer khiến cho Nasser trở nên nghiện thuốc giảm đau để trị bệnh tiểu đường.

Nhiệm kỳ thứ hai

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Nasser's_Second_Term.jpg|thế=To the left, a man in a suit and tie is standing at a podium in front of the Egyptian flag. To the right, a crowd of people watch, most of whom are men in suits. Some of the men are holding a camera.|phải|nhỏ|Nasser tuyên thệ nhậm chức tổng thống nhiệm kỳ thứ hai, ngày 25 tháng 3 năm 1965 Tháng 10 năm 1961, Nasser ban hành chính sách quốc hữu hóa toàn diện theo chủ nghĩa xã hội, tin rằng nó có thể giải quyết các vấn đề của Ai Cập đã có thể ngăn Syria ly khai. Năm 1962, Nasser ban hành Hiến chương Quốc gia và hiến pháp mới để vận động nhân dân, chống lại quân đội. Hiến chương Quốc gia đề xướng bảo hiểm y tế toàn dân, nhà ở giá rẻ, trường dạy nghề, nữ quyền, kế hoạch hóa gia đình và mở rộng Kênh đào Suez.

Nasser ban hành luật quy định mức lương tối thiểu, chia sẻ lợi nhuận, giáo dục miễn phí, y tế miễn phí, giảm giờ làm việc và khuyến khích công nhân tham gia vào quản lý xí nghiệp. Cải cách ruộng đất bảo đảm quyền lợi của tá điền, phát triển nông nghiệp và giảm nghèo ở nông thôn. Kết quả là thành phần kinh tế nhà nước chiếm 51% nền kinh tế. Liên minh Quốc gia được đổi tên thành Liên minh Xã hội chủ nghĩa Ả Rập (LMXHCNAR). Tuy nhiên, đàn áp chính trị gia tăng: hàng nghìn người theo chủ nghĩa Hồi giáo bị bỏ tù, kể cả nhiều sĩ quan. Từ năm 1966, nền kinh tế Ai Cập tăng trưởng chậm lại, nợ chính phủ tăng đến mức báo động. Nasser bắt đầu gỡ bỏ quy định đối với khu vực tư nhân, khuyến khích các ngân hàng nhà nước cho doanh nghiệp tư nhân vay tiền và ban hành các biện pháp tăng xuất khẩu. Vào thập niên 60, nền kinh tế Ai Cập bên bờ vực sụp đổ, xã hội mất tự do, tiếng tăm của Nasser suy giảm mạnh.

Chiến tranh Sáu Ngày

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Nasser,_Hussein_and_Amer_before_signing_Egyptian-Jordanian_defense_pact.jpg|thế=Three important men walking in a hall, the first and the third are in military garb, the second is in a suit and tie. Behind them are three other men|phải|nhỏ|Nasser (giữa), Vua Jordan Hussein (trái) và Tổng tham mưu trưởng Quân đội Ai Cập Abdel Hakim Amer (phải) ở trụ sở Bộ Tư lệnh tối cao Quân đội tại Cairo trước khi ký điều ước liên phòng, ngày 30 tháng 5 năm 1967 Giữa tháng 5 năm 1967, Liên Xô cảnh báo Ai Cập về khả năng Israel tấn công Syria nhưng tổng tham mưu trưởng Mohamed Fawzi cho rằng lời cảnh báo là "không có cơ sở". Kandil viết rằng Amer lấy lời cảnh báo của Liên Xô làm cớ đưa quân lính tới Sinai vào ngày 14 tháng 5 mà không xin phép Nasser. Ngày 2 tháng 5, Amer nhận được cảnh báo từ Jordan rằng Hoa Kỳ và Israel thông đồng nhử Ai Cập vào chiến tranh nhưng giấu Nasser cho tới khi đã triển khai quân vào ngày 14. Nasser yêu cầu LHQ rút lực lượng khỏi Sinai. Tuy Quốc vương Jordan Hussein và Nasser đã nhiều tháng tố nhau trốn tránh xung đột với Israel nhưng Hussein lo sợ rằng Israel có thể lợi dụng chiến tranh với Ai Cập để chiếm đóng Bờ Tây. Nasser thì được Hoa Kỳ và Liên Xô cam đoan rằng sẽ kiềm chế Israel nên cũng bảo đảm lại với hai cường quốc rằng Ai Cập sẽ chỉ phản ứng tự vệ.

Ngày 21 tháng 5, Amer yêu cầu Nasser ra lệnh phong tỏa Eo biển Tiran. Nasser tin rằng Israel sẽ lấy động thái này làm cớ gây chiến với Ai Cập bởi vì Israel đã nhiều lần tuyên bố rằng sẽ xem đóng cửa Eo biển Tiran như hành vi gây chiến. Tuy được Amer bảo đảm rằng quân đội đã chuẩn bị đầy đủ nhưng Nasser ngờ rằng Amer không trung thực về tình hình quân sự. Phó tổng thống Zakaria Mohieddin nói rằng "mặc dù Amer nắm toàn quyền kiểm soát quân đội nhưng những thủ đoạn của Amer như vải thưa che mắt thánh đối với Nasser". Amer dự đoán Israel sẽ tấn công trước nên yêu cầu Nasser ra lệnh đánh phủ đầu nhưng Nasser không chịu do thấy rằng không quân không có đủ phi công, những sĩ quan mà Amer chọn thì bất tài. Dù sao thì Nasser kết luận rằng Ai Cập có lợi thế về quân số và quân lực để cầm chân quân Israel ít nhất hai tuần đương lúc đàm phán ngừng bắn. Nasser ra lệnh hạn chế Eo biển Tiran đối với tàu bè Israel vào ngày 22–23 tháng 5. Từ cuối tháng 5, Nasser đổi lập trường từ phòng ngừa chiến tranh sang chấp nhận tất nhiên sẽ có chiến tranh dưới sức ép của dân Ả Rập và chính phủ các nước Ả Rập. Ngày 26 tháng 5, Nasser tuyên bố "mục tiêu cơ bản của chúng ta là tiêu diệt Israel". Ngày 30 tháng 5, Jordan gia nhập liên quân với Ai Cập và Syria.

Sáng ngày 5 tháng 6, Không quân Israel bắn phá các sân bay Ai Cập, tiêu diệt phần lớn Không quân Ai Cập. Cuối ngày, quân Israel đã chọc thủng tuyến phòng thủ và chiếm được thị trấn el-Arish. Hôm sau, Amer ra lệnh rút quân khỏi Sinai, gây ra phần lớn thương vong của bên Ai Cập. Israel chiếm Bán đảo Sinai, Dải Gaza, Bờ Tây và Cao nguyên Golan.

Sadat cho biết chỉ sau khi quân Israel cô lập đơn vị đồn trú của Ai Cập ở thành phố Sharm el-Sheikh thì Nasser mới nhận ra độ nghiêm trọng của tình hình. Nasser chạy lên tổng hành dinh để điều tra tình hình chiến sự. Những sĩ quan có mặtc cho biết đã xảy ra "trận cãi nhau không ngớt"

Từ chức

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Protests_against_Nassers_resignation_1967.jpg|thế=A crowd of people, many waving. One person is holding up a portrait of a man|trái|nhỏ|Nhân dân Ai Cập biểu tình phản đối Nasser từ chức, năm 1967

Bốn ngày đầu chiến sự, các đài phát thanh Ả Rập bịa đặt là Ả Rập sắp sửa toàn thắng Israel. Ngày 9 tháng 6, Nasser mới lên truyền hình thông báo Ai Cập bại trận cho nhân dân Ai Cập và tuyên bố từ chức. Phó tổng thống Mohieddin không hề biết rằng Nasser sẽ từ chức và không chịu kế nhiệm tổng thống.

Hàng trăm nghìn người xuống đường biểu tình phản đối Nasser từ chức trên khắp Ai Cập và thế giới Ả Rập, hô hào rằng "chúng tôi là binh sĩ của ông, Gamal!". Nasser rút lại đề nghị từ chức vào ngày hôm sau. phải|nhỏ|Đoạn ghi hình Nasser phát biểu từ chức Ngày 11 tháng 7, Nasser bổ nhiệm Mohamed Fawzi làm tổng tư lệnh thay cho Amer mặc dù bị những sĩ quan ủng hộ Amer phản đối. 600 sĩ quan lên tổng hành dinh yêu cầu Nasser cho Amer phục chức, Nasser lập tức cách chức 30 người. Amer và những đồng minh của ông lập âm mưu lật đổ Nasser vào ngày 27 tháng 8 nhưng có người phát giác cho Nasser biết nên ông mời Amer tới nhà vào ngày 24. Amer bị Mohieddin bắt giữ sau khi Nasser tiết lộ đã biết ông mưu phản. Ngày 14 tháng 9, Amer tự sát. Tuy không còn cảm tình với Amer nữa nhưng Nasser nói mất ông như mất "người thân thiết nhất với mình". Sau vụ việc, Nasser cho bắt giữ hàng chục cán bộ quân đội, tình báo ủng hộ Amer để phi chính trị hóa quân đội.

Ở hội nghị thượng đỉnh Liên đoàn Ả Rập tại Khartoum vào ngày 29 tháng 8, Vua Ả Rập Xê Út Faisal vượt lên Nasser nắm địa vị lãnh đạo. Liên đoàn Ả Rập tuyên bố ngừng bắn ở Vương quốc Yemen và thông qua Nghị quyết Khartoum gồm "Ba Không": không hòa bình với Israel, không thừa nhận Israel, không đàm phán với Israel.

Liên Xô tiếp tế khoảng một nửa kho vũ khí của Ai Cập và cắt đứt quan hệ ngoại giao với Israel. Sau chiến tranh, Ai Cập cắt đứt quan hệ với Hoa Kỳ và bỏ chính sách trung lập mà theo hẳn một bên. Tháng 11, Ai Cập tuyên bố chấp nhận Nghị quyết 242 của Hội đồng Bảo an LHQ yêu cầu Israel rút khỏi các lãnh thổ mà Israel chiếm đóng trong cuộc chiến. Có thể hiểu động thái của Nasser theo hai hướng: phe ủng hộ Nasser cho rằng chủ ý là câu thời gian chuẩn bị tấn công Israel lại, phe phản đối thì cho rằng Nasser không còn tha thiết với sự nghiệp độc lập Palestine.

Những năm cuối nhiệm kỳ

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:President_Nasser's_visit_to_the_Suez_front_with_Egypt's_top_military_commanders_during_the_War_of_Attrition.jpg|thế=A man wearing suit peering out across a body of water with binoculars from an opening in dirt mound. Behind him are three men in military uniform|phải|nhỏ|Nasser quan sát Kênh đào Suez với những sĩ quan Ai Cập trong Chiến tranh Tiêu hao năm 1968. Tổng tư lệnh Mohamed Fawzi là người đứng đằng sau Nasser, bên trái là Tổng tham mưu trưởng Abdel Moneim Riad.

Cải cách chế độ

Ngày 19 tháng 6 năm 1967, Nasser tự bổ nhiệm bản thân làm thủ tướng và tổng tư lệnh quân đội. Cuối tháng 2 năm 1968, công nhân và sinh viên tổ chức biểu tình đòi cải cách chính trị sau khi tòa án quân đội bị tố là xử phạt quá nhẹ tay đối với những sĩ quan không quân phục vụ cẩu thả trong chiến tranh. Đó là cuộc biểu tình lớn nhất kể từ đợt biểu tình công nhân vào tháng 3 năm 1954. Nasser cách chức hầu hết sĩ quan, quân nhân trong nội các rồi bổ nhiệm tám thường dân thay cho những đảng viên cao cấp. Ngày 3 tháng 3, Nasser ra lệnh ngành tình báo không được thu thập thông tin của người dân trong nước. Tuy nhiên, Nasser hàn gắn lại với Boghdadi và cân nhắc đưa ông lên làm phó tổng thống thay cho Sadat vào giữa năm 1970.

Chiến tranh Tiêu hao, ngoại giao Ả Rập

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Nasser_brokering_ceasefire_with_Chairman_Arafat_and_King_Hussein.jpg|thế=Three important seated men conferring. The first man from the left is wearing a checkered headdress, sunglasses and jodhpurs, the second man is wearing a suit and tie, and the third is wearing military uniform. Standing behind them are suited men.|phải|nhỏ|Nasser làm trung gian để điều đình ngừng bắn giữa [[Yasser Arafat thay mặt TCGPP (trái) và Quốc vương Jordan Hussein (phải) ở hội nghị thượng đỉnh khẩn cấp Liên đoàn Ả Rập tại Cairo vào ngày 27 tháng 9 năm 1970, một ngày trước khi Nasser qua đời]] Tháng 1 năm 1968, Nasser phát động Chiến tranh Tiêu hao với Israel để giành lại lãnh thổ. Quân đội Ai Cập tấn công các đơn vị Israel phía đông của Kênh đào Suez, bấy giờ bị phong tỏa. Tháng 3, Nasser đề nghị giúp cung cấp vũ khí, tiền bạc cho Yasser Arafat sau khi lực lượng của Arafat đẩy lùi được quân Israel trong Trận Karameh. Nasser cũng khuyên Arafat cân nhắc cầu hòa với Israel để thành lập một nhà nước Palestine gồm Bờ Tây và Dải Gaza. Nasser nhường lại trách nhiệm lãnh đạo đối với "vấn đề Palestine" cho Arafat.

Israel tiến hành biệt kích, pháo kích và không kích đáp trả Ai Cập, buộc thường dân Ai Cập phải sơ tán khỏi những thành phố dọc bờ tây của Kênh đào Suez. Được những nước Ả Rập tài trợ, Nasser đình chỉ các hoạt động quân sự để tập trung xây dựng tuyến phòng ngự. Chiến sự tái diễn vào tháng 3 năm 1969.

Tháng 6 năm 1970, Nasser tuyên bố chấp nhận hiệp định khung do Hoa Kỳ đề xướng, bản hiệp định yêu cầu kết thúc chiến sự, Israel rút quân khỏi lãnh thổ Ai Cập. Trừ Jordan ra thì Israel, TCGPP và hầu hết các nước Ả Rập đều bác bỏ hiệp định. Ban đầu Nasser cũng không chấp nhận nhưng bị Liên Xô ép nên phải nhượng bộ. Liên Xô cho rằng xung đột có thể biến thành chiến tranh kéo Liên Xô giao chiến với Hoa Kỳ. Nasser tính rằng ngừng bắn có thể là bước chiến thuật để đạt được mục tiêu chiến lược là giành lại Kênh đào Suez. Nasser không chịu đàm phán trực tiếp với Israel, tuyên bố rằng nghị hòa trực tiếp với Israel không khác gì đầu hàng. Sau khi Nasser chấp nhận ngừng bắn thì Israel đồng ý ngừng bắn. Nasser lợi dụng thời cơ để đưa tên lửa đất đối không tới khu vực kênh đào.

Cùng lúc, Quân đội Jordan tấn công TCGPP sau khi vụ cướp máy bay trên cánh đồng Dawson làm căng thẳng âm ỉ giữa hai bên bột phát. Nasser buộc phải tổ chức hội nghị thượng đỉnh khẩn cấp Liên đoàn Ả Rập vào ngày 27 tháng 9 ở Cairo để làm một thỏa thuận ngừng bắn và giảm nguy cơ xung đột lan rộng.

Qua đời và đám tang

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Nasser's_Funeral_Procession.png|thế=Throngs of people marching in a thoroughfare that is adjacent to a body of water|phải|nhỏ|Năm triệu người đi đưa đám cho Nasser ở Cairo, ngày 1 tháng 10 năm 1970 Ngày 28 tháng 9 năm 1970, hội nghị thượng đỉnh Liên đoàn Ả Rập bế mạc. Một vài tiếng sau khi tiễn Tiểu vương Kuwait Sabah Al-Salim Al-Sabah thì Nasser lên cơn đau tim. Ông được đưa ngay về nhà cho bác sĩ chăm sóc. Ông qua đời vào sáu giờ tối, thọ 52 tuổi. Heikal, Sadat và bà Tahia, vợ của Nasser ở bên cạnh lúc ông lâm chung. al-Sawi Habibi, bác sĩ của ông chẩn đoán nguyên nhân tử vong là xơ cứng động mạch, suy giãn tĩnh mạch chân và biến chứng tiểu đường. Nasser cũng nghiện thuốc lá và gia đình có tiền sử mắc bệnh tim—hai anh ruột của Nasser đều đau tim mất ở tuổi ngũ tuần. Công chúng không hề hay biết về tình hình sức khỏe của Nasser trước khi ông mất. Trước đó, Nasser đã lên cơn đau tim vào năm 1966 và tháng 9 năm 1969.

Được tin Nasser qua đời, dân Ả Rập bàng hoàng thương tiếc. Ít nhất năm triệu người đi đưa đám ở Cairo vào ngày 1 tháng 10. Hành trình 10 km đến nơi yên nghỉ của Nasser bắt đầu ở trụ sở cũ của HĐLĐCM, có máy bay MiG-21 bay diễu. Quan tài của ông được phủ quốc kỳ Ai Cập, nằm trên chiếc xe do sáu con ngựa kéo, có một đội kỵ binh dẫn đầu. Trừ Vua Ả Rập Xê Út Faisal ra thì tất cả các nguyên thủ Ả Rập đều đến dự đám tang của Nasser. Vua Hussein và Arafat khóc thành tiếng, còn Muammar Gaddafi thì ngất đi hai lần. Có một vài lãnh đạo ngoài thế giới Ả Rập tham dự như Thủ tướng Liên Xô Alexei Kosygin và Thủ tướng Pháp Jacques Chaban-Delmas. Hai người sống ở khu vực ngoại ô của Cairo đến cuối đời. Đời sống của Nasser và Tahia khá dễ chịu nhờ mức lương sĩ quan của Nasser. Đôi khi hai người bàn về chính trị ở nhà nhưng Nasser chủ yếu xem việc nhà ra việc nhà, việc nước ra việc nước. Lúc rảnh rỗi, Nasser thích chơi với con cái.

Nasser và Tahia có hai con gái và ba con trai:

  • Hoda, sinh năm 1945
  • Mona, sinh năm 1947
  • Khalid, sinh năm 1949, đứa tham gia chính trị tích cực nhất. Khalid bị cáo buộc ám sát thành viên Shin Bet đóng ở Ai Cập vào cuối thập niên 80. Khalid phải lưu vong ở Nam Tư, về sau được Tổng thống Hosni Mubarek ân xá.
  • Abd al-Hamid, sinh năm 1951
  • Abd al-Hakim, sinh năm 1955

Tuy chủ trương chính trị thế tục nhưng bản thân Nasser là một tín đồ Hồi giáo rất sùng đạo, ông đi hành hương Hajj đến Mecca vào năm 1954 và 1965. Ông nổi tiếng là không thể bị tha hóa. Nasser có sở thích chơi cờ, xem phim Hoa Kỳ, đọc tạp chí tiếng Ả Rập, tiếng Anh, tiếng Pháp và nghe nhạc cổ điển.

Nasser bị nghiện thuốc lá. Ông làm việc 18 tiếng mỗi ngày và hiếm khi đi nghỉ dưỡng. Hai yếu tố này làm suy giảm sức khỏe của ông. Ông bị chẩn đoán mắc bệnh tiểu đường vào đầu thập niên 60. Sau khi bị đau tim vào năm 1969 thì Nasser liệt giường sáu tuần, truyền thông nhà nước bấy giờ đưa tin Nasser vắng mặt là do bị cúm.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Gamal Abdel Nasser Hussein** (ngày 15 tháng 1 năm 1918 – ngày 28 tháng 9 năm 1970) là chính khách người Ai Cập, tổng thống Ai Cập từ năm 1954 tới khi qua đời vào
**Cách mạng Ai Cập năm 1952** (), còn được gọi là **Cách mạng 23 tháng 7**, đánh dấu một giai đoạn biến đổi quan trọng ở Ai Cập, cả về chính trị và kinh tế
**Ai Cập** ( , , ), tên chính thức là nước **Cộng hòa Ả Rập Ai Cập**, là một quốc gia liên lục địa có phần lớn lãnh thổ nằm tại Bắc Phi, cùng với

**Anwar Al-Sadad** (Tiếng Ả Rập: محمد أنور السادات **Muḥammad Anwar as-Sādāt**; sinh ngày 25 tháng 12 năm 1918, mất ngày 6 tháng 10 năm 1981) là Tổng thống thứ 3 trong lịch sử
nhỏ|[[Hathor, nữ thần của dải Ngân Hà]] **Lịch sử Ai Cập** là lịch sử của một lãnh thổ thống nhất lâu đời nhất trên thế giới. Vùng Thung lũng sông Nin tạo một khối địa
**Cộng hòa Ả Rập Thống nhất** ( __; dịch tiếng Anh: _United Arab Republic_) là liên minh chính trị tồn tại trong thời gian ngắn giữa Cộng hòa Ai Cập (1953-1958) và Cộng hòa Syria
**Saud bin Abdulaziz Al Saud** ( ; 15 tháng 1 năm 1902 – 23 tháng 2 năm 1969) là quốc vương của Ả Rập Xê Út từ năm 1953 đến năm 1964. Sau một giai đoạn
**Mohammed Abdel Rahman Abdel Raouf Arafat al-Qudwa al-Husseini** (, 24 tháng 8 năm 1929 – 11 tháng 11 năm 2004), thường được gọi là **Yasser Arafat** () hay theo kunya của ông **Abu Ammar** (),
**Saddām Hussein ʻAbd al-Majīd al-Tikrīt** – còn được viết là **Husayn** hay **Hussain**; tiếng Ả Rập صدام حسين عبد المجيد التكريتي  (sinh 28 tháng 4 năm 1937  - 30 tháng 12 năm 2006) là một chính
**Alexandria** (Tiếng Ả Rập, giọng Ai Cập: اسكندريه **Eskendereyya**; tiếng Hy Lạp: **Aλεξάνδρεια**), tiếng Copt: **Rakota**, với dân số 4,1 triệu, là thành phố lớn thứ nhì của Ai Cập, và là hải cảng lớn
**Chiến tranh sáu ngày** (tiếng Ả Rập: حرب الأيام الستة, _ħarb al‑ayyam as‑sitta_; tiếng Hebrew: מלחמת ששת הימים, _Milhemet Sheshet Ha‑Yamim_), cũng gọi là **Chiến tranh Ả Rập-Israel**, **Chiến tranh Ả Rập-Israel thứ ba**, **an‑Naksah
**Faisal bin Abdulaziz Al Saud** ( __; 14 tháng 4 năm 1906 – 25 tháng 3 năm 1975) là quốc vương Ả Rập Xê Út từ năm 1964 đến năm 1975. Ông được cho là đã
## Thập niên 1940 ### 1945 *Hội nghị Yalta *Hội nghị Potsdam ### 1946 * Tháng 1: Nội chiến Trung Quốc tái diễn giữa hai thế lực của Đảng Cộng sản và Quốc Dân Đảng.
**Muammar Abu Minyar al-Gaddafi** ( __; còn gọi là **Đại tá Gaddafi**; 7 tháng 6 năm 1942 - 20 tháng 10 năm 2011) đã là lãnh đạo _trên thực tế_ của Libya từ một cuộc
thumb|right|[[Cờ của cuộc nổi dậy Ả Rập|Cờ của cuộc nổi dậy Ả Rập chống lại đế chế Ottoman là một biểu tượng nổi bật của chủ nghĩa dân tộc Ả Rập. Thiết kế của nó
**Thế kỷ 20** là khoảng thời gian tính từ ngày 1 tháng 1 năm 1901 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2000, nghĩa là bằng 100 năm. Thế kỷ 20 bị chi phối bởi
**Lịch sử thế giới hiện đại** theo mốc từng năm, từ năm 1910 đến nay. ## Thập niên 1910 * 1910: Bắt đầu cuộc cách mạng México. George V trở thành vua của Vương quốc
**Cộng hòa Ả Rập Yemen**, (tiếng Ả Rập: الجمهوريّة العربية اليمنية [_al-Jamhūrīyah al-`Arabīyah al-Yamanīyah_]) còn được biết đến với cái tên **Bắc Yemen** hay **Yemen Sana'a**, là một quốc gia tồn tại từ năm 1962
**Cuộc cách mạng Libya năm 1969** (), còn được gọi là **Cách mạng al-Fateh** hay **Cách mạng ngày 1 tháng 9**, đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Libya. Sự kiện
**Chiến tranh Lạnh Ả Rập** (tiếng Ả Rập:الحرب العربية الباردة al-Harb al-`Arabbiyah al-bārdah) là một loạt các cuộc xung đột trong thế giới Ả Rập xảy ra như một phần của Chiến tranh Lạnh rộng
**Nabila M. Erian** (tiếng Ả Rập: نبيلة عريان, sinh năm 1941) là một giáo sư khoa học thanh nhạc tại Nhạc viện Cairo, Học viện Nghệ thuật. Sự nghiệp của bà là một ca sĩ
**David Ben-Gurion** (tiếng Hebrew: דָּוִד בֶּן-גּוּרְיּוֹן, tên khai sinh **David Grün**, 16 tháng 10 năm 1886 - 1 tháng 12 năm 1973) là thủ tướng đầu tiên của Israel. Ấp ủ hoài bão về công
Bài này là một tổng quan về **lịch sử Trung Đông**. Để có thông tin chi tiết hơn, xem các bài viết riêng về lịch sử các quốc gia và các vùng. Để thảo luận
phải|Bản đồ Thế giới năm 1962 với các phe liên kết **Chiến tranh Lạnh (1953–1962)** là một giai đoạn trong cuộc Chiến tranh Lạnh từ khi lãnh tụ Liên Xô Joseph Stalin qua đời năm
**Helena Ritz Fathia Nkrumah** (/ nərˈkrʊˈmɑːr / nər-KRUU-MAR) (ngày 22 tháng 2 năm 1932 - ngày 31 tháng 5 năm 2007); tên khai sinh là **Fathia Halim Ritzk** sinh ra; ), là một phụ nữ
Bản đồ thế giới năm 1980 với các liên minh Bài **Chiến tranh Lạnh (1962-1979)** nói về một giai đoạn trong cuộc Chiến tranh Lạnh từ sau cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba cuối tháng
**Vương quốc Mutawakkilite Yemen** ( _al-Mamlakah al-Mutawakkilīyah Al-Hashimiyah_), còn được gọi là **Vương quốc Yemen**, hoặc **Bắc Yemen**, là một quốc gia tồn tại giữa năm 1918 và 1962 ở phía bắc của Yemen ngày
**Sân vận động Quốc tế Cairo** (), được biết với tên cũ là **Sân vận động Nasser**, là một sân vận động đa năng, đạt tiêu chuẩn Olympic, toàn chỗ ngồi với sức chứa 75.000
**Anh hùng Liên bang Xô viết**, gọi tắt là **Anh hùng Liên Xô** (tiếng Nga: Герой Советского Союза, _Geroy Sovyetskovo Soyuza_) là danh hiệu vinh dự cao nhất của Chủ tịch đoàn Xô viết Tối
**Port Said** ( ) là một thành phố nằm ở phía đông bắc Ai Cập kéo dài khoảng dọc theo bờ biển Địa Trung Hải, phía bắc Kênh đào Suez, với dân số xấp xỉ
**Cạnh tranh ảnh hưởng giữa Ả Rập Xê Út và Iran** (đôi khi được gọi là Chiến tranh Lạnh Ả-rập Xê-út – Iran hay Chiến tranh Lạnh ở Trung Đông) là cuộc đấu tranh đang
Ngày **5 tháng 2** là ngày thứ 36 trong lịch Gregory. Còn 329 ngày trong năm (330 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *249 – Thừa cơ Hoàng đế Tào Phương cùng Đại tướng
Ngày **16 tháng 1** là ngày thứ 16 trong lịch Gregory. Còn 349 ngày trong năm (350 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *27 TCN – Viện nguyên lão ban tước Augustus cho Gaius
Ngày **15 tháng 1** là ngày thứ 15 trong lịch Gregory. Còn 350 ngày trong năm (351 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *69 – Otho đoạt lấy quyền lực tại thành La Mã,
Ngày **9 tháng 1** là ngày thứ 9 trong lịch Gregory. Còn 356 ngày trong năm (357 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *475 – Hoàng đế La Mã Zeno bị bức phải tẩu
Ngày **26 tháng 7** là ngày thứ 207 (208 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 158 ngày trong năm. ## Sự kiện * 1139 – Afonso I được tôn làm quốc vương đầu tiên
Ngày **23 tháng 6** là ngày thứ 174 (175 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 191 ngày trong năm. ## Sự kiện *195 TCN - Thái tử Lưu Doanh kế vị hoàng đế triều
Ngày **28 tháng 9** là ngày thứ 271 (272 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 94 ngày trong năm. ## Sự kiện *48 TCN – Pompey bị ám sát theo lệnh của Vua Ptolemy
**Israel** ( , ), tên gọi chính thức là **Nhà nước Israel** ( ; ), là một quốc gia tại Trung Đông, nằm trên bờ đông nam của Địa Trung Hải và bờ bắc của
**Otto Skorzeny** (12 tháng 6 năm 1908 tại Viên – 6 tháng 7 năm 1975 tại Madrid) là một trung tá (tiếng Đức: _Obersturmbannführer_) của Lực lượng Vũ trang SS trong suốt giai đoạn Chiến
nhỏ|200x200px|[[Abraham Lincoln, tổng thống Hoa Kỳ thứ 16 (tại nhiệm 1861–1865).]]nhỏ|247x247px|[[George Washington, Tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ (tại nhiệm 1789-1797) và cũng là người đầu tiên nắm giữ chức vụ này.]]**Tổng thống** là
**Trung Đông** (tiếng Anh: Middle East, tiếng Ả Rập: الشرق الأوسط, tiếng Hebrew: המזרח התיכון, tiếng Ba Tư: خاورمیانه) là chỉ bộ phận khu vực trung tâm của 3 Châu Lục: Á, Âu, Phi, từ
**Phong trào không liên kết** là một tổ chức quốc tế cánh tả gồm các quốc gia tự xem mình là không thuộc hoặc chống lại bất kỳ khối cường quốc lớn nào. Phong trào
**Jordan**, quốc hiệu là **Vương quốc Hashemite Jordan**, là một quốc gia Ả Rập tại Tây Á trải dài từ phần phía nam của sa mạc Syria tới vịnh Aqaba, giáp Syria ở phía bắc,
**Konrad Hermann Josef Adenauer** (5 tháng 1 năm 1876 - 19 tháng 4 năm 1967) là một chính trị gia người Đức. Dù có cuộc đời chính trị kéo dài 60 năm, bắt đầu từ
**Nhà Muhammad Ali** (tiếng Ả Rập:أسرة محمد علي _Usrat Muhammad 'Ali_) là triều đại đã cai trị Ai Cập và Sudan từ đầu thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20. Triều đại này lấy
**Chiến tranh Iran – Iraq**, hay còn được biết đến với những tên gọi **Chiến tranh xâm lược của Iraq** (جنگ تحمیلی, _Jang-e-tahmīlī_), **Cuộc phòng thủ thần thánh** (دفاع مقدس, _Defa-e-moghaddas_) và **Chiến tranh Cách
Thời kỳ **Ai Cập thuộc Ả Rập** bắt đầu vào năm 640, 641 hoặc 642, tùy cách chọn sự kiện đánh dấu của mỗi người. Trong thời kỳ này Ai Cập biến thành một xứ
nhỏ|[[Muhammad Ali của Ai Cập|Muhammad Ali Pasha]] **Lịch sử Ai Cập dưới triều đại Muhammad Ali Pasha** (1805 - 1953) là một thời kỳ cải cách và hiện đại hóa nhanh chóng, khiến Ai Cập
[[Eduard Bernstein (1850-1932), người khởi xướng việc xét lại học thuyết Marx.]] Trong chủ nghĩa Marx, từ **chủ nghĩa xét lại** được dùng để nói tới những ý tưởng, nguyên tắc hay lý thuyết khác