✨Hugo Sperrle

Hugo Sperrle

Hugo Sperrle (7 tháng 2 năm 1885 tại Ludwigsburg - 2 tháng 4 năm 1953 tại München) là một trong số các thống chế của Không quân Đức (Luftwaffe). Trong Thế chiến thứ hai, Sperrle là tư lệnh Tập đoàn quân Không quân số 3 (Luftflotte 3) đóng trên đất Pháp có nhiệm vụ đánh phá Anh và sau đó là tổng chỉ huy toàn bộ lực lượng không quân Đức ở phía Tây. Sau chiến tranh, ông bị đưa ra tòa án Nuremberg xét xử nhưng được tha bổng.

Cuộc đời

Những năm đầu cuộc đời

Sperrle sinh ngày 7 tháng 2 năm 1885 tại Ludwigsburg, con của một người ủ rượu bia. Ông bắt đầu sự nghiệp trong quân đội khi gia nhập vào trung đoàn bộ binh Württemberg số 126 khi còn là hạ sĩ quan vào tháng 1 năm 1903. Khi Thế chiến thứ nhất bùng nổ, ông đang theo học một khóa huấn luyện về tác xạ pháo binh.

Thế chiến thứ nhất

Ông bắt đầu cuộc chiến với vị trí quan sát viên trên phi cơ thuộc Phi đội Dã chiến 4 (Feldfliegerabteilung 4). Từ Ngày 1 tháng 10 năm 1935, ông được phong quân hàm thiếu tướng và giao chỉ huy Không quân Vùng V (Luftkreise V), căn cứ tại München.

Trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha, Sperrle đã trở thành chỉ huy trưởng đầu tiên của Lữ đoàn Chim ưng (Legion Condor) từ tháng 11 năm 1936 đến tháng 10 năm 1937 tập hợp các phi công tình nguyện của Luftwaffe tham gia cuộc chiến. Đơn vị dưới trướng ông bao gồm một phi đoàn oanh tạc cơ, một phi đoàn chiến đấu cơ, một phi đoàn không lực hải quân và hai khẩu đội pháo phòng không. Speerle chỉ chịu trách nhiệm trước duy nhất tướng Francisco Franco. Tháng 4 năm 1937, ông được thăng Trung tướng. Tham mưu trưởng của ông là Wolfram Freiherr von Richthofen, người về sau cũng trở thành thống chế. Sperrle chuyển trọng trách chỉ huy Legion Condor lại cho Helmuth von Volkmann vào ngày 31 tháng 10 năm 1937 và trở về Đức.

Thế chiến thứ hai

Trong Thế chiến thứ hai, Tập đoàn quân Không quân số 3 của Sperrle chủ yếu hoạt động ở Mặt trận phía Tây. Sau chiến thắng tại Pháp, Sperrle là một trong nhiều sĩ quan được phong quân hàm thống chế (Generalfeldmarschall) vào ngày 19 tháng 7 năm 1940. Ông cũng là một trong những người đã đề nghị cần tiêu diệt Không quân Hoàng gia Anh để tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đổ bộ lên nước này.

Trong Trận chiến nước Anh từ tháng 6 năm 1940 đến tháng 4 năm 1941, Tập đoàn quân Không quân số 3 của Speerle xuất phát từ miền Bắc nước Pháp đã đóng một vai trò quan trọng. Đơn vị của ông và Tập đoàn quân Không quân số 2 của thống chế Albert Kesselring có tổng cộng 929 máy bay chiến đấu, 875 máy bay ném bom và 316 máy bay tiêm kích. Tháng 9 năm 1940, Sperrle đã có tranh cãi với Albert Kesselring và Hermann Göring về việc không quân Đức chuyển mục tiêu ném bom sang các khu dân cư thay vì các sân bay của Anh như trước đây.

Khi Chiến tranh Xô-Đức bùng nổ, người Đức chỉ còn giữ lại ở mặt trận phía Tây một lực lượng không quân tương đối yếu và tất cả đều nằm trong biên chế của Tập đoàn quân Không quân số 3. Speerle sau đó trở thành tổng chỉ huy toàn bộ lực lượng không quân Đức ở phía Tây với tổng hành dinh đặt tại Paris từ tháng 7 năm 1940 với cá nhân ông sống một cách cực kỳ sang trọng tại Cung điện Luxembourg.

Đầu tháng 6 năm 1944, trước cuộc đổ bộ gần kề của Đồng Minh lên đất Pháp, trên giấy tờ, Tập đoàn quân Không quân số 3 chỉ còn 319 máy bay có thể tác chiến đối đầu với gần 9.000 máy bay của Đồng Minh. Ngoài ra, đơn vị còn phải bắt buộc sử dụng những phi công huấn luyện nửa chừng và bản thân Sperrle bắt đầu có thái độ bất mãn với Hitler và Göring. Những phi đội khu trục cơ đã hứa hẹn đang từ Đức đến thường không bao giờ tới. Với lực lượng này, không quân Đức không đủ khả năng để tham gia vào công việc phòng thủ và cuối cùng, vào ngày 18 tháng 8 năm 1944, Speerle bị bãi chức và từ đó cho đến hết chiến tranh, ông không còn được trọng dụng trở lại.

Những ngày cuối đời

Sperrle bị quân Anh bắt giữ tại Baravia vào ngày 1 tháng 5 năm 1945 và đưa ra tòa án Nuremberg xét xử về tội phạm chiến tranh nhưng được tuyên tha bổng vào ngày 27 tháng 10 năm 1948. Ông là một trong số bốn thống chế Đức được xét xử vô can tại phiên tòa này.

Sperrle mất ngày 2 tháng 4 năm 1953 tại München. Thi hài của ông được an táng tại một đài tưởng niệm gần sân bay Lechfeld.

Khen thưởng

Huân chương Thập tự Sắt (1914) Hạng II và I Huân chương Sư Tử Zähringer có hình Lá Cây sồi và Bảo kiếm *Huân chương Chữ thập Hiệp sĩ của Thập tự sắt ngày 17 tháng 5 năm 1940

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hugo Sperrle** (7 tháng 2 năm 1885 tại Ludwigsburg - 2 tháng 4 năm 1953 tại München) là một trong số các thống chế của Không quân Đức (Luftwaffe). Trong Thế chiến thứ hai, Sperrle
Ngày **7 tháng 2** là ngày thứ 38 trong lịch Gregory. Còn 327 ngày trong năm (328 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *199 – Quân của Tào Tháo và Lưu Bị chiếm được
Cuộc **Không chiến tại Anh Quốc** () là tên thường gọi của một cuộc không chiến dai dẳng giữa Đức Quốc xã và Anh Quốc vào mùa hè-thu năm 1940 trong Chiến tranh thế giới
nhỏ|Quân kỳ và là cờ hiệu của Kriegsmarine **Wehrmacht** (tiếng Đức: _Lực lượng Quốc Phòng_) là tên thống nhất của các lực lượng vũ trang quân đội Đức Quốc xã từ năm 1935 đến năm
**Sword**, hay **Bãi Sword**, là định danh của một trong năm khu vực đổ bộ của quân Đồng Minh trong Chiến dịch Neptune, mật danh của chiến dịch đổ bộ trong giai đoạn đầu của
**Thống chế** (, ) là cấp bậc quân sự cao cấp trong Quân đội Đức Quốc xã. Cấp bậc này từ được xem là cấp bậc quân sự cao nhất của Đức Quốc xã. Từ