✨Hội nghị Fontainebleau 1946

Hội nghị Fontainebleau 1946

phải|[[Lâu đài Fontainebleau, nơi diễn ra Hội nghị Pháp-Việt năm 1946]] Hội nghị Fontainebleau 1946 là đợt điều đình giữa Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Đệ tứ Cộng hòa Pháp về một số vấn đề cần minh định như

Địa vị của Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp,

Mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và các nước,

Tổ chức giữa các xứ trong Liên bang Đông Dương,

Nguyện vọng thống nhất ba kỳ: Bắc, Trung và Nam của Việt Nam qua việc trưng cầu dân ý ở Nam Bộ,

Các vấn đề kinh tế, văn hóa và soạn thảo dự án Hiệp ước.

Cuộc họp này diễn ra tại Fontainebleau thuộc tỉnh Seine-et-Marne, Pháp từ ngày 6 tháng 7 năm 1946 cho đến trung tuần tháng 9, 1946.

Quá trình chuẩn bị

Ngày 16/4/1946, cùng lúc đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đi Đà Lạt tham dự Hội nghị Đà Lạt 1946, một đoàn đại biểu Quốc hội khóa I Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phạm Văn Đồng dẫn đầu đi Paris thăm hữu nghị Pháp theo lời mời của Quốc hội Lập hiến Quốc gia Pháp. Đoàn gồm có 10 đại biểu: Phạm Văn Đồng là trưởng đoàn, Tôn Đức Thắng là phó đoàn, Trần Ngọc Danh, Đỗ Đức Dục, Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Văn Luận, Trình Quốc Quang, Huỳnh Văn Tiểng, Hoàng Tích Trí, Nguyễn Tấn Gi Trọng. Các tùy viên bao gồm: Nguyễn Văn An, Nghiêm Tử Trình, Ngô Văn Mạnh.

Hội nghị Fontainebleau

Thành phần các phái đoàn

[[Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng tại Paris, 1946]] Phái đoàn đại biểu Pháp gồm: Pignon, Torel, Gonon, Mesmer, Bourgoin, Darcy, đô đốc Barjot, tướng Salan, nghị viên Loseray, nghị viên Juglas Gallej, trưởng đoàn là Max André.

Phái đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gồm: Phan Anh, Bửu Hội, Hoàng Minh Giám, Nguyễn Văn Huyên, Trịnh Văn Bính, Đặng Phúc Thông, Dương Bạch Mai, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Mạnh Hà, Chu Bá Phượng, Huỳnh Thiện Lộc, Phạm Khắc Hòe, đoàn trưởng là Phạm Văn Đồng. Chuyên viên bao gồm Nguyễn Đệ, Hoàng Văn Đức, Vũ Trọng Khánh, Hồ Đắc Liên, Nguyễn Văn Luyện, Nguyễn Văn Tịnh, Nguyễn Đắc Khê.

Đàm phán Pháp-Việt

Ba tháng trước khi Hội nghị Fontainebleau nhóm họp thì phái đoàn Việt Nam và Pháp đã gặp nhau ở Hội nghị Đà Lạt 1946. Tuy không đạt thỏa thuận gì về mặt chính trị nhưng khi bế mạc, hai bên đồng ý nhóm họp lần nữa ở Pháp. Hội nghị Fontainebleau là kết quả của Hội nghị Đà Lạt.

Sáng ngày 6 tháng 7 năm 1946, Hội nghị Fontainebleau khai mạc tại phòng họp chính lâu đài Fontainebleau (Pháp), cách Thủ đô Paris chừng 60 km. Buổi khai mạc bắt đầu bằng một diễn văn chào mừng ngắn của trưởng đoàn Pháp Max André. Sau đó trưởng đoàn Việt Nam Phạm Văn Đồng đọc diễn văn lên án những hành động của Cao ủy Đông Dương Georges D'Argenlieu đã vi phạm Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3 như không đình chỉ chiến sự, chiếm phủ toàn quyền cũ, đặc biệt là việc quân đội Pháp chiếm Tây Nguyên và Tuyên cáo ngày 1 tháng 6 năm 1946 về một chính phủ Nam Kỳ quốc. Diễn văn này có đoạn: "Nếu coi Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 chỉ là một phương tiện để có thể kéo quân vào miền Bắc Việt Nam, để đẩy mạnh chiến tranh ở miền Nam Việt Nam, buộc chúng tôi chấp nhận "những việc đã rồi", thì không thể nào đi đến một sự thỏa thuận hòa bình và hữu nghị mà hai dân tộc chúng ta đều mong ước".

Phái đoàn Việt Nam có hai mục đích theo đuổi:

Độc lập chính trị.

Thống nhất Việt Nam.

Về vấn đề chính trị, quan điểm của phái đoàn Pháp chỉ xét Việt Nam là quốc gia tự trị hay độc lập trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp còn Liên bang Đông Dương là một liên hiệp các quốc gia tự trị tại Đông Dương trong Liên hiệp Pháp. Phái đoàn Việt Nam muốn Việt Nam trong Liên hiệp Pháp là sự hợp tác tự do và bình đẳng về mọi mặt còn Việt Nam trong Liên bang Đông Dương chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế và tài chính. Phái đoàn Việt Nam nhấn mạnh Liên bang Đông Dương không phải là một quốc gia. Về ngoại giao, Pháp muốn Việt Nam chỉ quan hệ với Pháp còn Việt Nam muốn có bộ ngoại giao riêng.

Về vấn đề thống nhất Việt Nam, phía Pháp đòi phải tái lập trật tự trước tiên rồi sau đó sẽ mở cuộc trưng cầu dân ý ở Nam Kỳ về vấn đề sáp nhập Nam Kỳ vào Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (thống nhất với Trung Kỳ và Bắc Kỳ).

Điểm gây nhiều khó khăn nhất là việc Chính phủ Pháp đã đơn phương tán thành việc thành lập Nam Kỳ quốc, tách rời khu vực này khỏi những phong trào độc lập ở hai miền Bắc Việt Nam và Miền Trung Việt Nam. Ngày 27 tháng 5 Cao ủy Đông Dương Georges D'Argenlieu lại còn thông qua việc thành lập Xứ Thượng Nam Đông Dương, chia cắt Việt Nam thành nhiều mảnh theo đúng tinh thần của Tuyên bố ngày 24 tháng 3 năm 1945 của tướng De Gaulle về việc thành lập các nhà nước tự trị của người bản xứ tại Đông Dương.

Ngày 1/8/1946, Cao ủy Đông Dương Georges D'Argenlieu triệu tập Hội nghị Liên bang (1946) tại Đà Lạt bao gồm các đại biểu Nam Kỳ quốc, Lào, Campuchia và các quan sát viên từ miền Nam Việt Nam và Tây Nguyên. Dù Bộ trưởng Bộ Hải ngoại Pháp Marius Moutet đã khuyên Georges Thierry d'Argenlieu thận trọng nhưng viên Cao ủy vẫn muốn thi hành Tuyên bố ngày 24 tháng 3 năm 1945 của tướng De Gaulle.

Ngày 8/8/1946, trưởng phái đoàn Pháp Max André gửi thông điệp cho phái đoàn Việt Nam rằng Hội nghị Liên bang (1946) tại Đà Lạt chỉ để biết dư luận của các dân tộc trên bán đảo Đông Dương về vấn đề Liên bang Đông Dương.

Hội nghị chính diễn ra từ ngày 6-7 đến ngày 10-9 năm 1946 tại lâu đài Fontainebleau theo phía Việt Nam đã thất bại, do phái đoàn Pháp vẫn cố giữ lập trường thực dân và ngay trong thời gian đang đàm phán họ đã ráo riết thực hiện âm mưu mở rộng chiếm đóng tại Việt Nam, liên tiếp vi phạm các điều khoản của Hiệp định sơ bộ 6-3.

Quyền bình đẳng cho Pháp kiều ở Việt Nam cũng như Việt kiều tại Pháp,

Tài sản của người Pháp bị tịch thu sẽ được hoàn trả và quyền sở hữu tôn trọng,

Đồng bạc Đông Dương lệ thuộc vào đồng franc Pháp,

Thiết lập hệ thống thuế quan và tự do mậu dịch cho các xứ Đông Dương,

Tái lập trật tự và ngưng bắn ở Nam Kỳ, trao đổi tù binh, và ngưng tuyên truyền kích động dân chúng.

Sau khi ký Tạm ước Việt - Pháp, Hồ Chí Minh nói với nhân viên mật thám Pháp được phân công bảo vệ ông: "Tôi vừa mới ký một bản án tử hình của tôi!". Hồ Chí Minh lấy lý do không quen đi máy bay để yêu cầu về nước bằng tàu thủy. Ông từ Paris đến Toulon để lên chiến hạm Dumont d'Urville về Việt Nam. Khi ghé Marseille, thay cho sự đón tiếp nồng nhiệt lúc ông mới sang Pháp, Việt kiều biểu tình gọi ông là Việt gian.

Xung đột trong nước

Trong khi Hội nghị Fontainebleau đang diễn ra, ở Việt Nam, Chính phủ Liên hiệp lâm vào cảnh rạn nứt giữa phe Việt Minh và Việt Nam Quốc dân Đảng. Việt Minh cáo buộc Việt Nam Quốc dân Đảng thủ tiêu các cán bộ của mình, cũng như câu kết với quân đội Pháp tạo cớ gây hấn nhằm thực hiện đảo chính. Ngược lại Quốc dân đảng cũng cáo buộc Việt Minh hợp tác với Pháp vì phe Quốc dân Đảng, nhất là đảng Đại Việt chống mãnh liệt Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt 1946 ký kết giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp hồi tháng 3 năm 1946. Theo thỏa thuận đó thì quân Pháp được quyền tiến ra miền Bắc thay thế quân Trung Hoa Quốc dân Đảng (lực lượng hậu thuẫn cho Đại Việt, Việt Quốc, Việt Cách) và nhà chức trách Pháp đã cung cấp hỏa lực giúp Việt Minh đánh dẹp các căn cứ của Quốc dân Đảng.

Ngày 15/6/1946, người lính cuối cùng của quân đội Trung Hoa Dân Quốc rời khỏi Việt Nam, Võ Nguyên Giáp vội vã từng bước tìm cách loại bỏ dần các đảng phái khác như Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt, những người Trotskist, lực lượng chính trị Công giáo... Ngày 19/6/1946, Báo Cứu Quốc của Tổng bộ Việt Minh đăng xã luận kịch liệt chỉ trích "bọn phản động phá hoại Hiệp định sơ bộ Pháp Việt mùng 6 tháng 3". Ngay sau đó Võ Nguyên Giáp bắt đầu chiến dịch truy quét các đảng phái khác bằng lực lượng công an và quân đội do Việt Minh kiểm soát với sự giúp đỡ của nhà cầm quyền Pháp. Ông cũng sử dụng các sĩ quan Nhật Bản trốn tại Việt Nam và một số vũ khí do Pháp cung cấp cho chiến dịch này. Một trong những sự kiện nổi tiếng nhất trong chiến dịch tiêu diệt các đảng phái đối lập là vụ án phố Ôn Như Hầu.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
phải|[[Lâu đài Fontainebleau, nơi diễn ra Hội nghị Pháp-Việt năm 1946]] **Hội nghị Fontainebleau 1946** là đợt điều đình giữa Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Đệ tứ
**Hội nghị Đà Lạt** còn gọi là _Hội nghị trù bị Đà Lạt_ họp từ ngày 19 tháng 4 đến ngày 11 tháng 5 năm 1946 tại Đà Lạt, là một hội nghị dự bị,
**Hiệp định sơ bộ Pháp – Việt** là một hiệp định được ký ngày 6 tháng 3 năm 1946 giữa Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hiệp định này được xem là một
Hồ Chí Minh, cơ hội cuối cùng Hội nghị ViệtPháp tại Fontainebleau, tháng 7 năm 1946được dịch vàxuất bản từnguyên bản tiếng PhápHo Chi Minh, dernière chance La conférence franco-vietnamienne de Fontainebleau, juillet 1946do Nhà
430x430px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 1 * 1 tháng 1: Thiên hoàng Nhật Bản thừa nhận không phải thần thánh. * 3 tháng 1: Khai mạc hội nghị đình chiến giữa chính phủ Quốc
**Hồ Chí Minh** (chữ Nho: ; 19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969), tên khai sinh là **Nguyễn Sinh Cung** (chữ Nho: ), còn được gọi phổ biến tại Việt Nam
**Lâu đài Fontainebleau** (tiếng Pháp: _Château de Fontainebleau_) là một lâu đài có kiến trúc Phục Hưng nằm tại thành phố Fontainebleau của Pháp. Là dinh thự hoàng gia của nước Pháp từ thời vua
**Việt Nam Dân chủ Cộng hòa** (**VNDCCH**), cũng được gọi là **Bắc Việt** (), là một nhà nước ở Đông Nam Á tồn tại từ năm 1945 đến năm 1976. Là một thành viên Khối
Hồ Chí Minh và Marius Moutet bắt tay sau khi ký Tạm ước Việt – Pháp **Tạm ước Việt – Pháp** hay **Thỏa hiệp án Việt – Pháp** là một ký kết tạm thời (thuật
**Vũ Đình Huỳnh** (1905–1990) là một cựu chính trị gia Việt Nam. Ông là người đầu tiên được phong quân hàm sĩ quan và là Đại tá đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng
**Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam** là quân hàm sĩ quan cao cấp dưới cấp tướng lĩnh và là cấp bậc sĩ quan cấp tá cao nhất trong Quân đội nhân dân Việt
**Nguyễn Đình Đầu** (12 tháng 3 năm 1920 - 20 tháng 9 năm 2024) là một nhà nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực địa lý, lịch sử Việt Nam. Ông được biết nhiều với
**Trương Văn Chình** (1908-1983) tức **Trình Quốc Quang** là một nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Việt Nam, và là đại biểu Quốc hội khóa I của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. ## Xuất
**Hoàng Minh Giám** (4 tháng 11 năm 1904 – 12 tháng 1 năm 1995) là một nhà ngoại giao của Việt Nam, người trực tiếp trợ giúp cho chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc
**Phan Anh** (1 tháng 3 năm 1912 – 28 tháng 6 năm 1990) là một luật sư và chính trị gia người Việt Nam. Ông là Bộ trưởng Bộ Thanh niên của Đế quốc Việt
**Nguyễn Văn Luyện** (30 tháng 4 năm 1898 – 20 tháng 12 năm 1946) là một bác sĩ, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I. Ông sinh tại tỉnh Bắc Ninh. Ông tốt nghiệp
**Nguyễn Mạnh Hà** (1913 – 1992) là nhà trí thức Công giáo, nhà chính trị Việt Nam, từng giữ chức Thanh tra Lao động Bắc kỳ, Bộ trưởng Bộ Kinh tế Quốc gia trong Chính
**Nguyễn Tường Tam** (chữ Hán: hay ; 1906 - 7 tháng 7 năm 1963) là một nhà văn, nhà báo với bút danh **Nhất Linh** (), **Tam Linh**, **Bảo Sơn**, **Lãng du**, **Tân Việt**, **Đông
**Tạ Quang Bửu** (1910–1986) là giáo sư, nhà khoa học Việt Nam, người đặt nền móng cho lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự Việt Nam, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc
_Mona Lisa_ với hình mẫu người [[phụ nữ Việt Nam trong tà áo dài truyền thống]] **Mai Trung Thứ** là một họa sĩ nổi tiếng của nền mỹ thuật hiện đại của Việt Nam trong
**Trần Hữu Tước** (13 tháng 10 năm 1913 - 23 tháng 10 năm 1983) là giáo sư, bác sĩ chuyên khoa tai - mũi - họng, một nhà khoa học lớn của Việt Nam. Ông
nhỏ|phải|389x389px|Các nước có cơ quan đại diện ngoại giao thường trú của [[Việt Nam]] **_Cơ quan đại diện_** thực hiện chức năng đại diện chính thức của Nhà nước Việt Nam trong quan hệ với
**Nguyễn Xuân Nguyên** (1907-1975) là một giáo sư y khoa người Việt Nam. Ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I năm 1996 cho các đóng góp xuất
**Đặng Phúc Thông** (1906-1951), là một kỹ sư giao thông công chính, Thứ trưởng Bộ Giao thông công chính của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, là thành viên Đảng Xã hội Việt
**Trần Hoàn** (tên thật là **Nguyễn Tăng Hích**, còn có bút danh **Hồ Thuận An;** – ) là một nhạc sĩ và chính khách Việt Nam, với phần lớn các ca khúc thuộc dòng nhạc
**Phạm Huy Thông** (1916–1988) là nhà thơ, nhà giáo, và nhà khoa học xã hội Việt Nam. ## Tiểu sử **Phạm Huy Thông** sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 tại Hà Nội trong một
**Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến** (có tài liệu gọi là **Chính phủ Liên hiệp Quốc gia**) là chính phủ được thành lập vào ngày 2 tháng 3 năm 1946 dựa trên kết quả của
**Cộng hòa tự trị Nam Kỳ** () hay Nam kỳ tự trị là chính thể tự trị trong khuôn khổ Liên bang Đông Dương, do Pháp lập nên, tồn tại trong giai đoạn 1946 -
**Doanh nghiệp quốc gia chiếu bóng và chụp ảnh Việt Nam** thành lập ngày 15/3/1953 là đơn vị doanh nghiệp đầu tiên của ngành Văn hoá ra đời trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp
**Chu Bá Phượng** (1906 - 1964) là một nhà cách mạng và chính khách Việt Nam. Ông là một trong những thành viên sáng lập Việt Nam Quốc dân Đảng, từng giữ các chức vụ
**Vũ Trọng Khánh** (1912 – 1996) là một luật sư người Việt Nam. Ông là Bộ trưởng Bộ Tư pháp đầu tiên của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông từng làm Đốc
**Jean Sainteny** (1907-1978) là một chính khách và cựu sĩ quan tình báo người Pháp. Ông là người giữ vai trò quan trọng đại diện cho chính phủ Pháp tại Đông Dương trong những năm
**Huỳnh Thúc Kháng** (chữ Nho: 黃叔沆, 1 tháng 10 năm 1876 – 21 tháng 4 năm 1947), tự **Giới Sanh**, hiệu **Mính Viên** (hay đôi khi được viết là **Minh Viên**), là một chí sĩ
**Điện ảnh Việt Nam** hay **phim điện ảnh Việt Nam** (tức **phim lẻ Việt Nam**) là tên gọi ngành công nghiệp sản xuất phim của Việt Nam từ 1923 đến nay. Điện ảnh Việt Nam
**Kha Vạng Cân** (16 tháng 10 năm 1908 – 18 tháng 1 năm 1982) là kỹ sư người Việt Nam, nguyên là Đô trưởng Sài Gòn-Chợ Lớn của Chính phủ Trần Trọng Kim và Bộ
**Trần Văn Hữu** (1896 – 1984) là Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao của chính phủ Quốc gia Việt Nam từ tháng 5 năm 1950 đến tháng 6 năm 1952. ## Tiểu sử ###
**Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang** (1909–1990) là một Giám mục người Việt Nam của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm nhận chức vụ giám mục phó, giám mục chính tòa giáo phận Cần Thơ
**Mặt trận Quốc gia Liên hiệp** là một ủy ban liên hiệp kháng chiến chống Pháp của các tổ chức cách mạng miền Nam được thành lập ngày 20 tháng 4 năm 1946, do ông
**Đinh Đăng Định** (sinh ngày 20 tháng 4 năm 1920 - mất ngày 11 tháng 8 năm 2003) là một nhà báo, nhiếp ảnh gia người Việt Nam. Ông được biết đến là người chuyên
**Huỳnh Thiện Lộc** (1910 - 1953) là một kỹ sư nông nghiệp, nhà tư bản dân tộc và chính trị gia Việt Nam. ## Tiểu sử Huỳnh Thiện Lộc sinh năm 1910 tại tỉnh Rạch
**Ga Hải Phòng** là ga tàu hỏa chính tại thành phố Hải Phòng, Việt Nam. Ga Hải Phòng là ga hành khách cuối cùng trên tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng. Ngoài ra,
**Bùi Công Trừng** (1905-1977) là một nhà lý luận cách mạng, nhà kinh tế, nguyên Thứ trưởng Bộ Kinh tế Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học
Ngày **14 tháng 9** là ngày thứ 257 (258 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 108 ngày trong năm. ## Sự kiện *81 – Domitianus trở thành hoàng đế của Đế quốc La Mã
Phạm Huy Thông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 trong một gia đình nho học, quê làng Đào Xá, xã Bãi Sậy, huyện Ân Thi. Từ nhỏ, ông được gia đình rèn luyện và
**INSEAD** là một trường đại học tư thục, phi lợi nhuận, với các cơ sở giảng dạy chính ở Fontainebleau, Pháp và Singapore, cùng với các cơ sở nghiên cứu ở Abu Dhabi, Các tiểu
**Đế quốc thực dân Pháp** bao gồm các thuộc địa hải ngoại, xứ bảo hộ và lãnh thổ ủy thác nằm dưới sự cai trị của Pháp từ thế kỷ 16 trở đi. Các nhà
**Đỗ Đình Thiện** (1904-1972) là một người đại tư sản dân tộc của Việt Nam, nhà tư sản ủng hộ Đảng Cộng sản Việt Nam. Trước Cách mạng tháng Tám ông đã là chủ cửa
**Joséphine de Beauharnais** (phiên âm tiếng Việt: **Giô-dê-phin**; ; tên khai sinh là **Marie Josèphe Rose Tascher de La Pagerie**; 23 tháng 6 năm 1763 – 29 tháng 5 năm 1814) là Hoàng hậu của
**Thư viện Quốc gia Pháp** (_Bibliothèque nationale de France_) là thư viện quan trọng nhất, đồng thời là cơ quan giữ chức năng lưu chiểu xuất bản phẩm của Pháp. Với vai trò thư viện