Hoàng Văn Hoan (1905 – 1991) là một chính khách, nhà ngoại giao người Việt Nam, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Phó Chủ tịch Quốc hội Việt Nam và là Đại sứ đầu tiên của Việt Nam tại Trung Quốc. Với bề dày hoạt động cách mạng ở nước ngoài, đặc biệt tại Trung Quốc và Thái Lan, ông là một trong những nhân vật có ảnh hưởng lớn trong quan hệ Việt – Trung trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh. Hoàng Văn Hoan nổi bật trong giới lãnh đạo Việt Nam bởi lập trường thân Trung Quốc và mối quan hệ cá nhân mật thiết với các lãnh đạo hàng đầu của Bắc Kinh, đặc biệt là Mao Trạch Đông.
Từng đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong Đảng và Nhà nước từ thập niên 1940 đến 1970, Hoàng Văn Hoan dần mất ảnh hưởng khi Việt Nam nghiêng về phía Liên Xô sau năm 1975. Năm 1979, giữa lúc căng thẳng Việt – Trung leo thang sau cuộc chiến tranh biên giới, ông đào tẩu sang Trung Quốc và lên tiếng công khai chỉ trích chính quyền Hà Nội. Tại Bắc Kinh, ông xuất hiện trong các hoạt động tuyên truyền của Trung Quốc, cáo buộc chính quyền Lê Duẩn phản bội tư tưởng Hồ Chí Minh, đàn áp người Hoa và khiêu khích xung đột khu vực. Ông bị Tòa án Nhân dân Tối cao Việt Nam xét xử vắng mặt và tuyên án tử hình vì tội phản quốc. Hoàng Văn Hoan sống lưu vong tại Bắc Kinh dưới sự bảo trợ của chính phủ Trung Quốc trước khi qua đời vào năm 1991.
Tiểu sử và sự nghiệp chính trị
Hoàng Văn Hoan, tên khai sinh là Hoàng Ngọc Ân, sinh năm 1905 trong một gia đình nhà Nho nghèo tại làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, Trung Kỳ, thuộc Liên bang Đông Dương. Ngay từ khi còn trẻ, ông đã tham gia vào các hoạt động yêu nước và phong trào cách mạng chống thực dân. Trong thập niên 1920–1930, ông hoạt động cách mạng tại nước ngoài, chủ yếu ở Thái Lan và Trung Quốc, nơi ông có điều kiện tiếp xúc với tư tưởng cộng sản. Năm 1926, ở tuổi 19, Hoàng Văn Hoan gia nhập tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội do Nguyễn Ái Quốc thành lập. Ông được đào tạo tại Trường Quân sự Hoàng Phố và từng giữ cấp bậc đại úy trong Quốc dân Cách mệnh Quân của Quốc dân Đảng trước khi gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Xiêm (Thái Lan) vào năm 1930 và đến năm 1934 trở thành Ủy viên Trung ương lâm thời của tổ chức này. Năm 1936, ông tham gia thành lập Hội Việt Nam Độc lập tại Nam Kinh – tổ chức tiền thân của Việt Minh.
Từ năm 1950, Hoàng Văn Hoan bắt đầu đảm nhiệm các chức vụ đối ngoại cấp cao trong chính quyền kháng chiến. Ông được cử làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền đầu tiên của Việt Nam tại Trung Quốc từ năm 1950 đến năm 1957, đồng thời kiêm nhiệm vai trò Đại sứ tại Triều Tiên và Mông Cổ. Năm 1951, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khóa II. Năm 1961, ông từng giữ chức Bí thư Thành ủy Hà Nội trong một thời gian ngắn, trước khi được phân công làm Trưởng Ban Liên lạc Đối ngoại Trung ương Đảng – cơ quan phụ trách công tác đối ngoại của Đảng – và Trưởng Ban Pháp chế Trung ương Đảng. Trong thập niên 1960, ông cũng tham gia chỉ đạo công tác vận động cách mạng tại Lào và Campuchia, góp phần vào chính sách đối ngoại và chiến lược cách mạng khu vực của Đảng Lao động Việt Nam. Sự kiện một nhân vật từng giữ chức vụ cao trong Đảng và nhà nước Việt Nam quyết định rời bỏ đất nước để sang Trung Quốc, một quốc gia đang có xung đột vũ trang với Việt Nam, gây chấn động trong dư luận trong nước và quốc tế. Tạp chí Time khi đưa tin về sự kiện này đã gọi đây là "cú sốc lớn thứ hai" đối với chính quyền Hà Nội, chỉ sau làn sóng hàng trăm nghìn thuyền nhân rời khỏi Việt Nam sau năm 1975.
Ngay sau khi đến Bắc Kinh, Hoàng Văn Hoan được tiếp đón trọng thị. Chỉ hai ngày sau khi đặt chân đến Trung Quốc, ông được Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc khi đó là Hoa Quốc Phong tiếp đón. Trong cuộc gặp này, Hoa Quốc Phong tuyên bố rằng "những kẻ phá hoại tình hữu nghị Việt – Trung sẽ bị đập vỡ đầu", một phát ngôn được hiểu là nhằm vào giới lãnh đạo Việt Nam. Đầu tháng 8 năm 1979, Hoàng Văn Hoan xuất hiện trong một cuộc họp báo tại Bắc Kinh và công khai chỉ trích mạnh mẽ chính quyền Việt Nam. Ông cáo buộc giới lãnh đạo Hà Nội đã "biến Việt Nam thành vệ tinh của ngoại bang" (ám chỉ sự phụ thuộc vào Liên Xô) và cho rằng người Hoa tại Việt Nam bị đối xử "tệ hơn cả cách Hitler đối xử với người Do Thái". Những phát biểu của Hoan hoàn toàn tương đồng với lập luận chính thức của Trung Quốc trong giai đoạn này, nhưng bị giới truyền thông và dư luận Việt Nam kịch liệt lên án. Ngày 25 tháng 8 năm 1979, Tòa án Nhân dân Tối cao Việt Nam tổ chức phiên tòa xét xử vắng mặt ông về tội phản bội Tổ quốc và tuyên án tử hình. Đây là trường hợp quan chức cấp cao nhất trong lịch sử nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bị kết án tử hình vắng mặt với cáo buộc "đào ngũ theo địch".
Qua đời
Sau khi đưa ra những phát ngôn chỉ trích lãnh đạo Việt Nam lúc mới đào thoát, Hoàng Văn Hoan sống trong cảnh ẩn dật tại Bắc Kinh và gần như không xuất hiện trước công chúng. Ông chỉ đôi khi được truyền thông Trung Quốc nhắc đến trong các cuộc gặp với giới chức nước này. Vào tháng 1 năm 1991, ông phải nhập viện do bị nhiễm trùng phổi và mắc các chứng bệnh mạn tính liên quan đến tim và phổi. Sau một thời gian điều trị, ông qua đời tại Bắc Kinh vào ngày 18 tháng 5 năm 1991, thọ 86 tuổi. Cái chết của ông được truyền thông chính thức Trung Quốc đưa tin, trong đó mô tả ông là "một người bạn già đáng kính của nhân dân Trung Quốc". Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân cùng nhiều lãnh đạo cấp cao khác được cho là đã đến thăm ông trong thời gian ông nằm viện. Chính phủ Trung Quốc tổ chức lễ tang cấp nhà nước và an táng ông tại Nghĩa trang cách mạng Bát Bảo Sơn – nơi chôn cất nhiều lãnh tụ cấp cao của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Theo nguyện vọng cá nhân, một phần tro cốt của ông được đưa đi Côn Minh để rắc trên đầu nguồn sông Hồng, một phần được đưa về quê hương Quỳnh Đôi, Nghệ An, để an táng.
Tác phẩm
Sau khi đào tẩu sang Trung Quốc, ông viết nhiều cuốn sách bằng tiếng Trung, một số mang tính tự truyện. Các tác phẩm đã xuất bản của ông bao gồm:
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hoàng Văn Hoan** (1905 – 1991) là một chính khách, nhà ngoại giao người Việt Nam, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Phó Chủ tịch
**Lê Văn Ngọ**, thường được biết đến với tên gọi **Hoàng Vân** (24 tháng 7 năm 19304 tháng 2 năm 2018), là một nhạc sĩ người Việt Nam. Ông có một sự nghiệp sáng tác
**Hoàng Văn Thái** (1915 – 1986), tên khai sinh là **Hoàng Văn Xiêm** là Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam và là một trong những tướng lĩnh có ảnh hưởng quan trọng trong
**Đa Minh Hoàng Văn Đoàn** (1912–1974) là Giám mục Việt Nam đầu tiên coi sóc Giáo phận Bắc Ninh. Ông có khẩu hiệu là "Tôi sẽ rao truyền danh Chúa cho các anh em tôi".
**Cosma Hoàng Văn Đạt** (sinh 1947) là một Giám mục Công giáo người Việt Nam. Khẩu hiệu Giám mục của ông là _"Tình thương và sự sống"_. Ông từng đảm trách vai trò Giám mục
**Giuse Hoàng Văn Tiệm** (1936–2013) là một Giám mục của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục chính tòa của Giáo phận Bùi Chu. Khẩu hiệu Giám mục của ông
Chân dung Hoàng Văn Chí (1913-1988) **Hoàng Văn Chí** (1 tháng 10 năm 1913 - 6 tháng 7 năm 1988), bút danh **Mạc Định**, là một học giả người Mường Việt Nam có lập trường
**Võ Văn Hoan** (sinh năm 1965), là một công chức, chính trị gia người Việt Nam. Ông từng giữ chức vụ Thành ủy viên, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí
**Hoàng** hay **Huỳnh** (chữ Hán: 黃) là một họ ở Việt Nam. Ngoài ra họ **Hoàng** có thể tìm thấy ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Triều Tiên. Họ Hoàng trong tiếng Trung có
**Hoàng Đạo Thúy** (1900–1994) là một nhà cách mạng và nhà hoạt động văn hóa xã hội Việt Nam. Ông từng là thủ lĩnh Phong trào Hướng đạo Việt Nam tại khu vực Bắc Kỳ
**Hoàng Văn Nọn** (1907-1968), bí danh **Hoàng Như**, **Hoàng Tú Hưu**, **Tú Hưu**, **Hoàng Ngọc Như**, **Văn Tân**, **Hoàng Lương Hữu**, **Thiết**, **Hoàng Vĩnh Tuy**, nguyên Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Cao Bằng, nguyên Chủ
**Hoàng Văn Kiểu** (1921-2006), thường gọi là **Hoàng Kiểu**, là một nhà cách mạng và chính khách Việt Nam. Ông từng giữ chức Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Việt Nam (1981-1987), Trưởng
**Hoàng Công Hoàn** là một chính khách người Việt Nam. Ông từng là Phó Chánh Văn phòng Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam. Ông nguyên là Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn, đại biểu
**Hoàng Văn Cường** (sinh ngày 1 tháng 1 năm 1963) là khoa học gia và chính khách người Việt Nam, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông hiện là đại biểu quốc hội Việt
Ý chí và lòng quyết tâm ra đi thực hiện sứ mệnh cứu nước, giúp nhà của người thanh niên HOÀNG VĂN THỤ được nhà văn Tô Hoài khắc họa sinh động. Với niềm tin
**Lữ Văn Hoán** (chữ Hán: 吕文焕, ? - ?), người huyện An Phong, Túc Châu, là tướng lĩnh cuối đời Nam Tống, trấn thủ thành Tương Dương 6 năm, cuối cùng đầu hàng nhà Nguyên
**Công viên Hoàng Văn Thụ** là một công viên nằm về phía nam Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, thuộc địa phận quận Tân Bình. Công viên
**Hoàng Văn Lạc** (1927 – 2014), nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ một trường Võ bị Liên quân do
**Hoàng Văn Phúc** (sinh năm 1964) là huấn luyện viên bóng đá và cựu cầu thủ bóng đá người Việt Nam. Ông từng là huấn luyện viên trưởng của đội tuyển quốc gia Việt Nam
nhỏ|Tượng [[Đại Thắng Minh Hoàng Hậu ở Hoa Lư, người duy nhất làm hoàng hậu 2 triều trong lịch sử Việt Nam.]] **Hoàng hậu nhà Đinh** theo ghi chép trong chính sử gồm 5 Hoàng
**Gioan Phaolô II** (hay **Gioan Phaolô Đệ Nhị;** tiếng Latinh: _Ioannes Paulus II_; tên khai sinh: **Karol Józef Wojtyła,** ; 18 tháng 5 năm 1920 – 2 tháng 4 năm 2005) là vị giáo hoàng
**Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận** (17 tháng 4 năm 1928 – 16 tháng 9 năm 2002) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách cương vị
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Tập đoàn giáo dục Nguyễn Hoàng** có tên đầy đủ là **Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Nguyễn Hoàng** (tên tiếng Anh: **Nguyen Hoang Group** - **NHG**), hoạt động trong lĩnh vực đầu
**Hoàng Mai** là một quận nội thành của thành phố Hà Nội, Việt Nam. Đây là quận có diện tích lớn thứ tư của thành phố (sau các quận Long Biên, Hà Đông và Bắc
**Trường Trung học Phổ thông Trần Phú - Hoàn Kiếm**, tiền thân là **Trường Petit Lycée**, rồi **Trường Albert Sarraut**. Là một trong các trường trung học phổ thông công lập hệ không chuyên nổi
**Nữ hoàng** (chữ Hán: 女皇, tiếng Anh: _Empress Regnant_), cũng được gọi là **Nữ đế** (女帝) hay **Nữ hoàng đế** (女皇帝), **bà hoàng**, **bà chúa** là một danh từ dùng để chỉ người phụ nữ
**Hiếu Tĩnh Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝静成皇后, ; 19 tháng 6, năm 1812 - 21 tháng 8, năm 1855), còn gọi **Hiếu Tĩnh Khang Từ Hoàng hậu**, **Khang Từ Hoàng thái hậu** hay **Khang
thumb|Hệ **tọa độ hoàng đạo** với tâm đặt tại [[Trái Đất, được nhìn từ phía ngoài thiên cầu. Hoàng kinh (màu đỏ) được đo dọc theo hoàng đạo từ điểm xuân phân. Hoàng vĩ (màu
còn gọi là hay là tước hiệu của người được tôn là Hoàng đế ở Nhật Bản. Nhiều sách báo ở Việt Nam gọi là _Nhật Hoàng_ (日皇), giới truyền thông Anh ngữ gọi người
**Phêrô Nguyễn Văn Nhơn** (sinh ngày 1 tháng 4 năm 1938) là một hồng y, giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông hiện đảm nhận tước vị Hồng y Đẳng Linh mục Nhà thờ
**Lịch sử của chế độ Giáo hoàng** là một lịch sử lâu dài kéo dài trong suốt 2000 năm với rất nhiều sự kiện và biến động. Giáo hội Công giáo nhìn nhận Giáo hoàng
**Lãnh địa Giáo hoàng** hay **Nhà nước Giáo hoàng** (tiếng Ý: _Stato Pontificio_; tiếng Anh: _Papal States_), tên gọi chính thức là **Nhà nước Giáo hội** hay **Quốc gia Giáo hội** (tiếng Ý: _Stato della
**Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝誠仁皇后, ; 26 tháng 11 năm 1653 – 16 tháng 6 năm 1674), còn được biết đến với thụy hiệu ban đầu là **Nhân Hiếu Hoàng hậu** (仁孝皇后),
**Hoàn Nhan Vĩnh Tế** (chữ Hán: 完颜永济, 1168?—11 tháng 9, 1213), vốn tên là **Hoàn Nhan Doãn Tế** (完颜允济), tên tự là **Hưng Thắng** (興勝), là hoàng đế thứ 7 của nhà Kim trong lịch
**Văn Lãng** là một huyện biên giới thuộc tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Văn Lãng nằm ở phía bắc tỉnh Lạng Sơn, có vị trí địa lý: *Phía đông giáp huyện
**Hoàng Cao Khải** (chữ Hán: 黃高啟; 1850–1933), là nhà văn, nhà sử học và là đại thần thân Pháp dưới triều vua Thành Thái trong lịch sử Việt Nam. Ông được xem là cộng sự
**Đa Minh Nguyễn Văn Mạnh** (sinh năm 1955) là một giám mục người Việt của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông hiện giữ chức giám mục chính tòa Giáo phận Đà Lạt. Trước đó, ông
là vị Thiên hoàng thứ 38 của Nhật Bản theo danh sách thiên hoàng truyền thống. Thời đại của ông bắt đầu từ năm 668 đến khi ông qua đời vào năm 672, nhưng trên
Thượng tướng **Chu Văn Tấn** (1910–1984) là một vị tướng của Quân đội Nhân dân Việt Nam, người đặt nền móng gây dựng nên lực lượng vũ trang Việt Nam. ## Thân thế Ông là
**Giáo hoàng Bônifaciô VIII** (Tiếng La Tinh: **Bonifacius VIII**) là vị giáo hoàng thứ 193 của giáo hội Công giáo Rôma. Theo niên giám tòa thánh Vatican năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng
**Giáo hoàng Urbanô VIII** (Latinh: **Urbanus VIII**) là vị giáo hoàng thứ 235 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1623. Niên giám
**Khủng hoảng kinh tế** là một giai đoạn suy thoái kéo dài, liên tục trong hoạt động kinh tế ở một hoặc nhiều nền kinh tế. Đây là một cuộc suy thoái kinh tế nghiêm
**Phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm** là một phong trào văn hóa mang xu hướng chính trị của một số văn nghệ sĩ, trí thức sống ở miền Bắc dưới chính quyền Việt Nam
**Hoàng Minh Đạo**, tên thật **Đào Phúc Lộc**, (1923 – 1969) là một sĩ quan tình báo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thời chiến tranh Việt Nam. Ông phụ trách phòng Tình báo
**Thái hoàng thái hậu** (chữ Hán: 太皇太后; Kana: たいこうたいごうTaikōtaigō; Hangul: 태황태후Tae Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Grand Empress Dowager_ hay _Grand Empress Mother_), thông thường được giản gọi là **Thái Hoàng** (太皇) hay **Thái Mẫu**
**Piô VII** là vị giáo hoàng thứ 251 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào ngày 14 tháng 3 năm 1800 và ở
**Thác Bạt Hoảng** (, 428 – 29 tháng 7 năm 451), là một hoàng thái tử của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông là trưởng tử của Bắc Ngụy Thái Vũ
**Từ Thánh Quang Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 慈聖光獻皇后, 1016 - 16 tháng 11, 1079), còn gọi **Từ Thánh Tào Thái hậu** (慈聖曹太后) hay **Từ Thánh hậu** (慈聖后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống
[[Đình Bình Thủy, Cần Thơ.]] **Thành hoàng** hay **Thần hoàng**, **Thần Thành hoàng**, là vị thần được tôn thờ chính trong đình làng Việt Nam. Thần Thành hoàng có thể mang nhiều cái tên khác