✨Hồ sơ Lầu Năm Góc
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Dissident_Activities_in_Indochina.svg|nhỏ|Bản đồ các khu vực Việt Minh tại [[Bán đảo Đông Dương vào tháng 11 năm 1950 của Cơ quan Tình báo Trung ương trong Hồ sơ Lầu Năm Góc]] Hồ sơ Lầu Năm Góc, tên chính thức là Báo cáo của Tổ công tác Việt Nam thuộc Văn phòng Bộ trưởng Quốc phòng, là hồ sơ lịch sử của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ về can thiệp của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1968. Daniel Ellsberg, người từng tham gia nghiên cứu công trình này, công bố bộ hồ sơ trên trang nhất của tờ báo The New York Times vào năm 1971, gây chấn động dư luận Hoa Kỳ.
Hồ sơ Lầu Năm Góc tiết lộ rằng Hoa Kỳ đã mở rộng phạm vi can thiệp trong Chiến tranh Việt Nam bằng cách bí mật tiến hành các cuộc đột kích ven biển vào Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và triển khai Thủy quân Lục chiến. Ellsberg ban đầu bị buộc tội âm mưu, gián điệp và trộm cắp tài sản nhà nước vì tiết lộ Hồ sơ Lầu Năm Góc, nhưng được thả sau khi các điều tra viên vụ bê bối Watergate phát hiện ra rằng Nixon đã ra lệnh cho thuộc cấp thực hiện các hành vi trái pháp luật nhằm làm mất uy tín của Ellsberg.
Tháng 6 năm 2011, toàn bộ Hồ sơ Lầu Năm Góc được giải mật và công bố.
Nội dung
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Ime_Magazine_Pentagon_Papers.jpg|nhỏ|_Hồ sơ Lầu Năm Góc trên bìa tạp chí [[Time (tạp chí)|Time_.]] Ngày 17 tháng 6 năm 1967, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Robert McNamara thành lập Tổ công tác nghiên cứu Việt Nam, có nhiệm vụ biên soạn một "lịch sử bách khoa về Chiến tranh Việt Nam". McNamara tuyên bố rằng ông muốn lưu lại một bộ hồ sơ cho sử sách để những chính quyền về sau tránh mắc lại những sai lầm tương tự, McNamara không thông báo cho Tổng thống Lyndon B. Johnson hoặc Dean Rusk về công trình nghiên cứu. McNamara phủ nhận điều này, nhưng thừa nhận rằng ông đáng lẽ nên thông báo cho Johnson và Rusk. Tháng 6 năm 1967, McNaughton qua đời trong một vụ tai nạn máy bay và quan chức Bộ Quốc phòng Les Gelb tiếp quản công trình nghiên cứu. Paul F. Gorman và John Galvin, nhà sử học Melvin Gurtov, các nhà kinh tế Hans Heymann, Richard Moorstein và Richard Holbrooke. Danh sách câu hỏi của McNamara gửi cho tập thể nghiên cứu gồm 100 vấn đề, ví dụ như "Số lượng thương vong của địch đáng tin cậy đến mức nào? Các chương trình bình định vùng nông thôn Việt Nam có hiệu quả không? Cơ sở cho khoảng cách tín nhiệm của Tổng thống Johnson là gì? Hồ Chí Minh có phải là một Tito châu Á không? Hoa Kỳ có vi phạm Hiệp định Genève về Đông Dương không?"
Chủ đề
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Rolling_Thunder_Route_Package_Organisation.gif|thế=A map of North Vietnam divided into red areas for bombing strategy, as duplicated by the US Military Academy|nhỏ|Các khu vực ném bom tại [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong Chiến dịch Sấm Rền, được đề cập trong Hồ sơ Lầu Năm Góc]] Hồ sơ Lầu Năm Góc gồm 47 tập:
I. Việt Nam và Hoa Kỳ, 1940–1950 (1 tập)
: A. Chính sách của Hoa Kỳ, 1940–50 : B. Bản chất và sức mạnh của Việt Minh : C. Hồ Chí Minh: Tito của châu Á?
II. Can thiệp của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Pháp – Việt Minh 1950–1954 (1 tập)
: A. Hoa Kỳ, Pháp và chủ nghĩa dân tộc Việt Nam : B. Tiến tới một giải pháp đàm phán
III. Hiệp định Genève (1 tập)
: A. Kế hoạch quân sự và thủ đoạn ngoại giao của Hoa Kỳ : B. Vai trò và nghĩa vụ của Quốc gia Việt Nam : C. Lập trường của Việt Minh và chiến lược Trung–Xô : D. Mục đích của Hiệp định Genève
IV. Diễn biến của cuộc chiến (26 tập)
A. Chương trình viện trợ quân sự của Hoa Kỳ cho Diệm: Cam kết của Eisenhower, 1954–1960 (5 tập)
: 1. NATO và SEATO: Một nghiên cứu so sánh : 2. Viện trợ cho Pháp tại Đông Dương, 1950–54 : 3. Hoa Kỳ và Pháp rút quân khỏi Việt Nam, 1954–56 : 4. Hoa Kỳ huấn luyện Quân đội Quốc gia Việt Nam, 1954–59 : 5. Nguồn gốc của cuộc nổi loạn
B. Chống nổi loạn: Cam kết của Kennedy, 1961–1963 (5 tập)
: 1. Cam kết và chương trình của Kennedy, 1961 : 2. Chương trình Ấp Chiến lược, 1961–63 : 3. Tăng cường cố vấn quân sự, 1961–67 : 4. Hoa Kỳ rút quân theo từng giai đoạn khỏi Việt Nam, 1962–64 : 5. Lật đổ Ngô Đình Diệm, tháng 5 – tháng 11 năm 1963
C. Can thiệp trực tiếp: Cam kết của Johnson, 1964–1968 (16 tập)
: 1. Chương trình của Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam, tháng 11 năm 1963 – tháng 4 năm 1965: NSAM 273 – NSAM 288 – Honolulu : 2. Áp lực quân sự chống lại Bắc Việt Nam (3 tập) :: a. Tháng 2 – tháng 6 năm 1964 :: b. Tháng 7 – tháng 10 năm 1964 :: c. Tháng 11 – tháng 12 năm 1964 : 3. Chiến dịch Sấm Rền bắt đầu: tháng 1 – tháng 6 năm 1965 : 4. Đơn vị chiến đấu của Thủy quân Lục chiến đổ bộ Đà Nẵng, tháng 3 năm 1965 : 5. Giai đoạn I trong việc tăng cường lực lượng của Hoa Kỳ: tháng 3 – tháng 7 năm 1965 : 6. Chiến lược bộ binh và triển khai lực lượng của Hoa Kỳ: 1965–1967 (3 tập) :: a. Tập I: Giai đoạn II, Chương trình 3, Chương trình 4 :: b. Tập II: Chương trình 5 :: c. Tập III: Chương trình 6 : 7. Không chiến tại miền Bắc: 1965–1968 (2 tập) :: a. Tập I :: b. Tập II : 8. Tăng cường bình định: 1965–1967 : 9. Quan hệ Hoa Kỳ – Việt Nam Cộng hòa (2 tập) :: a. Tập 1: tháng 12 năm 1963 – tháng 6 năm 1965 :: b. Tập 2: tháng 7 năm 1965 – tháng 12 năm 1967 : 10. Khảo sát thống kê về cuộc chiến tại miền Bắc và miền Nam: 1965–1967
V. Lý lẽ biện minh cho cuộc chiến (11 tập)
: A. Tuyên bố công khai (2 tập) :: Tập I: :: A – Chính quyền Truman :: B – Chính quyền Eisenhower :: C – Chính quyền Kennedy :: Tập II: :: D – Chính quyền Johnson : B. Tài liệu nội bộ (9 tập) :: 1. Chính quyền Roosevelt :: 2. Chính quyền Truman: (2 tập) ::: a. Tập I: 1945–1949 ::: b. Tập II: 1950–1952 :: 3. Chính quyền Eisenhower: (4 tập) ::: a. Tập I: 1953 ::: b. Tập II: 1954–Genève ::: c. Tập III: Hiệp định Genève – 15 tháng 3 năm 1956 ::: d. Tập IV: Pháp rút quân năm 1956 – 1960 :: 4. Chính quyền Kennedy (2 tập) ::: a. Tập I ::: b. Tập II
VI. Giải quyết xung đột (6 tập)
: A. Đàm phán, 1965–67: Hồ sơ công khai : B. Đàm phán, 1965–67: Tuyên bố lập trường : C. Lịch sử liên lạc (4 tập) :: 1. 1965–1966 :: 2. Kênh Ba Lan :: 3. Kênh Moskva – Luân Đôn :: 4. 1967–1968
Mục tiêu thật sự của Chiến tranh Việt Nam: ngăn chặn Trung Quốc
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Containment_of_China.jpg|nhỏ|Theo Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ [[Robert McNamara, chính sách ngăn chặn Trung Quốc của Hoa Kỳ là một chiến lược lâu dài nhằm bao vây Trung Quốc bằng Liên Xô, các quốc gia vệ tinh của Liên Xô và:]]
Mặc dù Tổng thống Johnson tuyên bố công khai rằng mục đích của Chiến tranh Việt Nam là bảo vệ một "Nam Việt Nam độc lập, không Cộng sản", một bản ghi nhớ tháng 1 năm 1965 của Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng John McNaughton nêu rằng lý do thật sự là "không phải để giúp bạn bè mà là để ngăn chặn Trung Quốc".
Ngày 3 tháng 11 năm 1965, Bộ trưởng Quốc phòng McNamara gửi một bản ghi nhớ cho Johnson giải thích những chính sách quan trọng của Hoa Kỳ liên quan đến sự can thiệp tại Việt Nam. Bản ghi nhớ tiết lộ lý do thật sự của Chiến dịch Sấm Rền:
McNamara cho rằng Trung Quốc có tham vọng đế quốc giống như Đế quốc Đức, Đức Quốc Xã, Đế quốc Nhật Bản và Liên Xô và đang âm mưu "thu phục toàn bộ châu Á" chống lại Hoa Kỳ:
Để bao vây Trung Quốc, Hoa Kỳ phải thiết lập "ba mặt trận":
Tuy nhiên, McNamara thừa nhận rằng chính sách ngăn chặn Trung Quốc sẽ tiêu tốn một lượng lớn thời gian, tiền bạc và sinh mạng của Hoa Kỳ.
Can thiệp vào nội bộ Việt Nam
Ngay từ trước sự kiện Vịnh Bắc Bộ, chính phủ Hoa Kỳ đã gián tiếp can thiệp vào nội bộ của Việt Nam bằng cách cử cố vấn hoặc quân nhân để huấn luyện binh lính Nam Việt Nam:
- Dưới thời Tổng thống Harry S. Truman, Hoa Kỳ viện trợ cho Pháp chống lại Việt Minh trong Chiến tranh Đông Dương.
- Dưới thời Tổng thống Dwight D. Eisenhower, Hoa Kỳ đóng "vai trò trực tiếp trong sự sụp đổ của Hiệp định Genève" bằng cách giúp Việt Nam Cộng hòa và ngấm ngầm phá hoại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Dưới thời Tổng thống John F. Kennedy, Hoa Kỳ thay đổi chính sách Việt Nam từ một "canh bạc" nhỏ thành một "cam kết" rộng.
- Dưới thời Tổng thống Johnson, Hoa Kỳ tiến hành các hoạt động quân sự bí mật chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để bảo vệ Việt Nam Cộng hòa.
Hoa Kỳ ủng hộ Ngô Đình Diệm lên nắm quyền
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Ngo_Dinh_Diem_at_Washington_-_ARC_542189.jpg|phải|nhỏ|Tổng thống Hoa Kỳ [[Dwight D. Eisenhower đón tiếp Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm năm 1957. Theo Hồ sơ Lầu Năm Góc, Hoa Kỳ giúp Ngô Đình Diệm lên nắm quyền tại miền Nam Việt Nam]] Hồ sơ Lầu Năm Góc khẳng định rằng sự tồn tại của Việt Nam Cộng hòa là nhờ Hoa Kỳ:
Hồ sơ Lầu Năm Góc tiếp tục nhấn mạnh Hoa Kỳ giúp Ngô Đình Diệm và Việt Nam Cộng hòa tồn tại:
Hoa Kỳ viện trợ quân sự 28,4 triệu đô la Mỹ thiết bị, vật tư cho chế độ Diệm và đào tạo 32.000 người của Địa phương quân và nghĩa quân với chi phí là 12,7 triệu đô la Mỹ nhằm giúp chế độ Diệm chống lại Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Hồ sơ Lầu Năm Góc xác định Edward Lansdale, người từng làm việc cho Cơ quan Tình báo chiến lược và Cơ quan Tình báo Trung ương, là nhân vật chủ chốt trong việc đưa Diệm lên làm tổng thống Việt Nam Cộng hòa và sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ cho chế độ Diệm. Trong một bản ghi nhớ năm 1961, Lansdale viết rằng: "Chúng ta (Hoa Kỳ) phải ủng hộ Ngô Đình Diệm cho đến khi một lãnh đạo mạnh mẽ khác có thể thay thế ông ta một cách hợp pháp."
Hoa Kỳ ủng hộ đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Corpse_of_Ng%C3%B4_%C4%90%C3%ACnh_Di%E1%BB%87m_in_the_1963_coup.jpg|phải|nhỏ|Thi thể của Ngô Đình Diệm sau khi ông bị ám sát trong cuộc [[đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963 do Hoa Kỳ hậu thuẫn]] Theo Hồ sơ Lầu Năm Góc, Hoa Kỳ đóng vai trò chủ chốt trong cuộc đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963 và vụ ám sát Ngô Đình Diệm. Hoa Kỳ một mặt bí mật liên lạc với các tướng lĩnh đang lên kế hoạch đảo chính, mặt khác cắt viện trợ cho Diệm và ủng hộ một chính phủ mới:
Ngay từ ngày 23 tháng 8 năm 1963, sĩ quan Cơ quan Tình báo Trung ương Lucien Conein đã gặp các tướng lĩnh Việt Nam đang lập kế hoạch đảo chính lật đổ Diệm.
Đề xuất hành động quân sự
Giám đốc Tình báo Trung ương John A. McCone đề xuất ba loại hành động quân sự như sau:
- Loại 1 – không kích các trung tâm cung ứng chính của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, do Không lực Việt Nam Cộng hòa và Không quân Hoa Kỳ tiến hành đồng thời (có mật danh là Chiến dịch Farm Gate).
- Loại 2 – đột kích xuyên biên giới các trung tâm cung ứng chính của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, do các đơn vị Việt Nam Cộng hòa và cố vấn quân sự Hoa Kỳ thực hiện.
- Loại 3 – không kích hạn chế các mục tiêu ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bằng máy bay không đánh dấu do phi công không phải người Mỹ lái.
McCone tin rằng những hành động quân sự này sẽ không làm leo thang tình hình vì khối cộng sản sợ leo thang chiến sự với Hoa Kỳ. sao chép bản báo cáo với ý định công bố nó. Ellsberg tiếp cận Cố vấn An ninh Quốc gia Henry Kissinger, Thượng nghị sĩ William Fulbright và George McGovern và những người khác, nhưng không ai quan tâm. Hai người từ chối xuất bản các tài liệu, nhưng giới thiệu ông với phóng viên Neil Sheehan của tờ báo The New York Times. Ngày 2 tháng 3 năm 1971, Ellsberg đưa 43 tập tài liệu cho Sheehan.
Sheehan làm bản sao
Ellsberg yêu cầu Sheehan chỉ ghi chép về bộ hồ sơ tại căn hộ của Ellsberg, nhưng Sheehan quyết định sao chép bộ hồ sơ với sự giúp đỡ của vợ ông là Susan. Ông đem bản sao đến Washington D.C. để đọc chúng với một biên tập viên tại khách sạn The Jefferson. Các biên tập viên A. M. Rosenthal và James L. Greenfield gửi bản sao qua đường bưu điện đến căn hộ của Greenfield trước, sau đó Greenfield và vợ ông đem bộ hồ sơ đến khách sạn New York Hilton Midtown và làm việc ngày đêm để sắp xếp, tóm tắt tài liệu cùng với Sheehan, Rosenthal, phó biên tập viên quốc tế Gerald Gold, Allan M. Siegal, Fox Butterfield, Hedrick Smith, EW Kenworthy và nhà nghiên cứu Linda Amster. Sheehan cũng đưa một số bản sao cho Max Frankel, giám đốc văn phòng Washington D.C. của tờ báo và Frankel giúp tờ báo xuất bản bộ tài liệu. Tờ báo tham khảo ý kiến của luật sư trước khi xuất bản. Lord Day & Lord, hãng luật thường trực của tờ báo, khuyên tờ báo không nên công bố bộ hồ sơ,
Quốc hội vào cuộc
Ngày 29 tháng 6, Thượng nghị sĩ Mike Gravel đưa 4.100 trang tài liệu Hồ sơ Lầu Năm Góc vào biên bản của Tiểu ban Môi trường và Công trình công cộng để có thể thảo luận công khai về nội dung của bộ hồ sơ một cách hợp pháp. Howard Zinn và Noam Chomsky biên tập những tài liệu này cho Gravel. Ben Bagdikian, phó biên tập của tờ báo The Washington Post, đưa tài liệu cho Gravel lúc nửa đêm vào ngày 26 tháng 6 trước Khách sạn Mayflower. Tài liệu được tuồn vào văn phòng của Gravel và được các cựu thương binh canh giữ cẩn thận. Một đại bồi thẩm đoàn liên bang được thành lập để điều tra những hành vi có dấu hiệu hình sự trong việc công bố bộ hồ sơ. Leonard Rodberg, trợ lý của Gravel, bị triệu tập làm chứng về vai trò của ông trong việc công bố Hồ sơ Lầu Năm Góc, nhưng Gravel yêu cầu tòa án hủy bỏ lệnh triệu tập vì vi phạm quyền tự do ngôn luận của nghị sĩ theo Hiến pháp Hoa Kỳ.
Gravel lập luận rằng vì nghị sĩ không thể bị khởi tố vì phát ngôn tại Quốc hội, nên ông không thể bị buộc tội phản quốc vì đưa Hồ sơ Lầu Năm Góc vào biên bản của Quốc hội. Trong vụ Gravel kiện Hoa Kỳ, Tòa án tối cao phán quyết rằng Rodberg được hưởng quyền miễn trừ với tư cách là trợ lý của Gravel, nhưng quyền miễn trừ không được áp dụng trong trường hợp này vì lệnh triệu tập của đại bồi thẩm đoàn liên quan đến bên thứ ba chứ không phải hành vi mà họ thực hiện để đưa bộ hồ sơ vào biên bản của Quốc hội. Tuy nhiên, đại bồi thẩm đoàn đình chỉ cuộc điều tra và không ai bị truy tố về việc công bố Hồ sơ Lầu Năm Góc.
Nixon kiểm duyệt báo chí
Nixon ban đầu không phản đối việc công bố Hồ sơ Lầu Năm Góc vì nó làm xấu mặt Johnson và Kennedy hơn là chính ông, nhưng Kissinger thuyết phục ông rằng việc im hơi lặng tiếng sẽ tạo tiền lệ xấu về bí mật nhà nước. Chính quyền cáo buộc Ellsberg và Russo vi phạm Luật Gián điệp năm 1917 vì họ không có thẩm quyền công bố tài liệu mật. Sau khi tờ The New York Times từ chối ngừng xuất bản bộ hồ sơ, Ngày 18 tháng 6 năm 1971, tờ báo The Washington Post bắt đầu xuất bản loạt bài viết riêng về Hồ sơ Lầu Năm Góc
Tòa án tối cao cho phép xuất bản
Ngày 30 tháng 6 năm 1971, Tòa án tối cao phán quyết rằng chính phủ không đáp ứng gánh nặng chứng minh cần thiết để cấm tờ báo The New York Times xuất bản Hồ sơ Lầu Năm Góc.
Ellsberg vào vòng lao lý
Ngày 28 tháng 6, Ellsberg đầu thú tại Boston và thừa nhận rằng ông là người tiết lộ bộ hồ sơ cho báo chí. Một đại bồi thẩm đoàn ở Los Angeles ban hành bản cáo trạng truy tố ông về tội ăn cắp và tàng trữ tài liệu mật theo Luật Gián điệp 1917. Thông tin chấn động nhất là bốn đời tổng thống (Truman, Eisenhower, Kennedy và Johnson) đánh lừa công chúng về cuộc chiến: Eisenhower phá hoại Hiệp định Genève, Kennedy bật đèn xanh cho cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm, Johnson can thiệp sâu hơn vào cuộc chiến trong khi cam kết không mở rộng cuộc chiến;
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Leslie_H._Gelb_signature.png|thế=Signature of US DoD official Leslie Gelb, supervising editor of the Pentagon Papers|phải|nhỏ|220x220px|Chữ ký của Leslie H. Gelb trong Hồ sơ Lầu Năm Góc
Giải mật toàn bộ
Ngày 4 tháng 5 năm 2011, Cục Văn thư và Lưu trữ quốc gia Hoa Kỳ thông báo sẽ giải mật Hồ sơ Lầu Năm Góc và chuyển bộ hồ sơ đến Thư viện và Bảo tàng Tổng thống Richard Nixon ở Yorba Linda, California, vào ngày 13 tháng 6 năm 2011. Bộ hồ sơ cũng được đồng thời công bố tại Thư viện Kennedy và Johnson và Trung tâm Lưu trữ tại College Park, Maryland.