✨Gran Torino
Gran Torino là một phim chính kịch Mỹ năm 2008 do Clint Eastwood đạo diễn, sản xuất và thủ vai chính. Bộ phim này đánh dấu sự trở lại của Eastwood trong một vai chính sau 4 năm vắng bóng. Đoàn diễn viên của bộ phim gồm chủ yếu những người Hmông và người con trai út của Eastwood là Scott Eastwood trong vai "Trey". Người con trai cả của Eastwood là Kyle Eastwood đã cung cấp nhạc cho phim. Tác phẩm ra mắt khán giả với quy mô hạn chế tại một số rạp ở Bắc Mỹ vào ngày 12 tháng 12 năm 2008, và ra mắt toàn cầu vào ngày 9 tháng 1 năm 2009.
Bộ phim kể lại câu chuyện của Walt Kowalski, một cựu chiến binh Chiến tranh Triều Tiên vừa góa vợ đang bị gia đình xa lánh và cảm thấy bực tức với cuộc đời. Thao, người hàng xóm trẻ tuổi của Walt, cố gắng ăn cắp chiếc xe Ford Grand Torino đời 1972 yêu quý của Walt theo lời xúi giục của một người anh họ để tham gia vào một băng đảng. Walt bắt đầu một mối quan hệ với Thao và gia đình của Thao.
Gran Torino đã gặt hái thành công trong cả hai lĩnh vực phê bình và đại chúng, thu được trên 269 triệu USD toàn cầu..
- Geraldine Hughes vai Karen Kowalski, con dâu của Walt. Walt ghét Karen vì cô này đã lục lọi các nữ trang của vợ ông là Dorothy sau khi bà qua đời.
- Dreama Walker vai Ashley Kowalski và Michael E. Kurowski vai Josh Kowalski, các con của Mitch, cháu nội của Walt. Ashley muốn chiếc Gran Torino của ông nội.
- John Carroll Lynch vai một người hớt tóc người Mỹ gốc Ý, một người quen cũ của Walt. Hai người dùng từ ngữ miệt thị để chào nhau. Ông và Walt giúp Thao "nói chuyện như đàn ông với nhau".
- Chee Thao vai Bà Vang Lor, người láng giềng cao tuổi của Walt, lúc đầu bà cũng ghét Walt.
- Choua Kue vai Youa, một cô gái Hmong xinh đẹp, mà Walt đã thuyết phục Thao đeo đuổi vì ông thấy rằng cô đang để ý Thao.
Sản xuất
Gran Torino được Clint Eastwood đạo diễn và Nick Schenk viết kịch bản. Bộ phim được sản xuất bởi Village Roadshow Pictures, Media Magik Entertainment và Malpaso Productions cho nhà phân phối Warner Bros. Eastwood cũng sản xuất cùng với đối tác từ Malpaso là Robert Lorenz và Bill Gerber. Kịch bản gốc lấy cảm hứng từ khu ngoại ô phía trong của thành phố Minneapolis, Minnesota, nhưng các nhà làm phim đã lấy bối cảnh là Michigan để quay phim, trở thành một trong những bộ phim lợi dụng luật mới của tiểu bang nhằm thu hút giới làm phim. Phim bắt đầu quay vào tháng 7 năm 2008, tại các địa điểm như Highland Park, Detroit, Center Line, Warren, Royal Oak, và Grosse Pointe Park, Michigan. Nhiều người Hmong tham gia trong bộ phim với những vai trò như trợ lý, cố vấn, và vai quần chúng.
Đầu thập niên 1990, Schenk đã biết đến lịch sử và văn hóa của người Hmong trong lúc làm việc tại một công xưởng ở Minnesota. Ông được biết rằng họ đã ủng hộ Quân lực Việt Nam Cộng hòa và Quân đội Hoa Kỳ trong thời chiến tranh Việt Nam, nhưng sau khi quân Mỹ rút lui và Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, họ bị rơi vào các trại tị nạn và bị quân Cộng sản ngược đãi. Chenoweth đã tìm được Bee Vang ở St. Paul và Ahney Her ở Detroit.
Đĩa
Bộ phim được phát hành vào ngày 9 tháng 6 năm 2009 dưới dạng đĩa DVD và Blu-ray. Đĩa còn kèm theo các ấn bản phụ và tính năng bổ sung.
Đón nhận
Phê bình
Sau khi xem bộ phim, tờ The New York Times nhắc đến sắc điệu "cầu hồn" của bộ phim, và miêu tả nó như "một bộ phim giống như một chiếc xe thể thao bóng mượt sản xuất tại Hoa Kỳ, tại cái nghĩa địa công nghiệp mang tên Detroit". Manohla Dargis của tờ Times so sánh sự hiện diện của Eastwood trong bộ phim với những phim Dirty Harry và The Man with No Name, nói rằng, "Dirty Harry đã trở lại, trong một cách nào đó, trong Gran Torino, không phải là một nhân vật nhưng mà một sự hiện diện ma ảo. Ông lởn vởn trong phim, trong các đề tài và hình ảnh cấp cao, và tất nhiên là hiển nhiên trong khuôn mặt của Eastwood. Nay nó là một khuôn mặt bất hủ, có nhiều nếp nhăn đến nỗi không chỉ sương gió như những thập niên qua, nhưng nay lại gần giống gỗ hóa thạch hơn." Roger Ebert viết rằng bộ phim "nói về wrote that the film is "about the belated flowering of a man's better nature. And it's about Americans of different races growing more open to one another in the new century."
However, not everyone enjoyed the film. Mark Harris, columnist for Entertainment Weekly, described it as "fantasy pretending to be social commentary," and accused it of peddling "the delusion that even the bigot next door has something to teach us all about heroism and self-sacrifice," adding "no, he doesn't." Conversely, Nicole Sperling, also of Entertainment Weekly, perceived it in the exact opposite manner. She called it a drama with "the commercial hook of a genre film" and described it further as "a meditation on tolerance wrapped in the disguise of a movie with a gun-toting Clint Eastwood and a cool car."
Rotten Tomatoes reported that 79 percent of critics gave the film positive write-ups, based upon a sample of 201, with an average score of 7.1/10. At Metacritic, which assigns a normalized rating out of 100 to reviews from mainstream critics, the film has received an average score of 72, based on 33 reviews.
Các giải thưởng và đề cử
Gran Torino được Viện phim Mỹ công nhận là một trong 10 phim hay nhất trong năm 2008. Diễn xuất của Clint Eastwood cũng được đánh giá cao. Ông thắng giải Nam diễn viên xuất sắc nhất từ National Board of Review, và được đề cử cho Giải của Nhà phê bình (Critics' Choice Award) của Hội Nhà phê bình Phim Truyền thông (Broadcast Film Critics Association) và giải của Hội Nhà phê bình Phim Chicago (Chicago Film Critics Association Awards). Một bài hát gốc từ bộ phim với tên "Gran Torino" được đề cử cho giải Bài hát gốc xuất sắc nhất của Quả Cầu vàng. Nhạc bài hát do Clint Eastwood, Jamie Cullum, Kyle Eastwood, và Michael Stevens sáng tác, và Cullum viết ca từ. The Art Directors Guild nominated Gran Torino in the contemporary film category.
Tuy nhiên, tại Giải Oscar thứ 81 của Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh]], nó không được đề cử cho giải nào, và việc này đã làm nhiều nhà phê bình chỉ trích vì họ cảm thấy Viện Hàn lâm đã "bỏ qua" các bộ phim WALL-E, Hiệp sĩ bóng đêm, Changeling và Revolutionary Road trong năm giải quan trọng nhất.