Wolfgang Amadeus Mozart hoàn thành bản giao hưởng số 41 cung Đô trưởng, K. 551, vào ngày 10 tháng 8 năm 1788. Nó là bản giao hưởng dài nhất và bản cuối cùng trong thể loại này mà ông đã từng sáng tác.
Tác phẩm có biệt danh là bản giao hưởng "Sao Mộc". Tên này bắt nguồn không phải từ Mozart mà có khả năng từ "ông bầu" âm nhạc Johann Peter Salomon.
Nhạc cụ tham gia
Bản giao hưởng bao gồm sáo sắt Flute, hai kèn Ô-boa, hai kèn Pha-gốt, hai kèn Cor, hai kèn Trumpet cung Đô trưởng, trống cung Đô-Sol, và nhạc cụ dây kéo.
Tác phẩm và ra mắt
Bản giao hưởng số 41 là tác phẩm cuối cùng trong bộ ba giao hưởng nổi tiếng 39-40-41 được Mozart sáng tác nhanh chóng trong suốt mùa hè năm 1788. Bản số 39 được hoàn thành vào ngày 26 tháng 6 và số 40 ngày 25 tháng 7. Nikolaus Harnoncourt lập luận rằng Mozart sáng tác cả ba bản giao hưởng như một công việc thống nhất, giữa những công việc khác, thực tế là bản giao hưởng số 41, như là công việc cuối cùng, không được giới thiệu (không giống như số 39) nhưng có một cái kết rất hùng tráng.
Trong cùng thời gian đó, trong khi sáng tác bộ ba bản giao hưởng, Mozart sáng tác bản piano tam tấu cung Mi trưởng (K. 542), và Đô trưởng (K. 548), độc tấu piano số 16 cung Đô trưởng (K. 545) – cái gọi là bản sonata "trôi chảy" (sáng tác một cách nhanh chóng) – và một bản độc tấu violin K. 547.
Không biết liệu bản giao hưởng số 41 đã từng được trình diễn lần nào trong cuộc đời của nhà soạn nhạc hay chưa. Theo Otto Erich Deutsch, khoảng thời gian này Mozart đã chuẩn bị để ra mắt một loạt "các buổi hòa nhạc trong các sòng bạc" trong một sòng bạc mới ở Spiegelgasse thuộc sở hữu của Philip Otto. Mozart thậm chí còn gửi một cặp vé đến bạn của mình Michael Puchberg. Nhưng có vẻ như không thể để xác định xem buổi biểu diễn đã được tổ chức hay chưa, hay là hủy bỏ do sự thiếu quan tâm.
Các phần
Bốn phần được sáng tác theo mô hinh giao hưởng cổ điển đặc trưng:
Allegro nhanh và tươi sáng, 44
Andante có cảm xúc, 34 cung Fa trưởng
Menuetto: Allegretto— Trio, 34 ,
Molto allegro khá nhanh 22
Bản giao hưởng đặc biệt dài khoảng 33 phút, lâu hơn bình thường.
Chủ đề chính của các nhạc cụ bắt đầu với mô tuýp tương phản: một bộ ba tutti (các nhạc cụ cùng chơi) trên nền nhạc cơ bản (tương ứng, một tăng dần, chuyển hàng đầu trong một bộ ba từ những giai điệu cơ bản chi phối), theo sau bởi 1 âm thanh phản ứng trữ tình.
Giai điệu này cất lên hai lần và sau đó, tiếp theo là một chuỗi giai điệu dài sôi động. Những gì tiếp theo là một đoạn chuyển tiếp mà hai họa tiết tương phản đang mở rộng và phát triển. Từ đó, chủ đề thứ hai, bắt đầu với một phần trữ tình trong cung Sol trưởng mà kết thúc trên một hợp âm thứ bảy và tiếp theo là một giai điệu bão táp trong cung Đô thứ.
Phần cuối cùng của bản nhạc, Molto allegro với tiết tấu như Presto (rất nhanh) là một kết thúc hùng vĩ, rất to lớn, choáng ngợp và tràn đầy ánh sáng, không như của số 39 ngắn và nhanh và số 40 đầy bão táp và bi thảm. Nhưng phần mở đầu của bản số 41 lại mơ hồ và mở thẳng chủ đề, không như phần giới thiệu chậm rãi của số 39, và sự diễn tả cảm xúc buồn, bâng khuâng của số 40. Do đó, có thể coi 3 bản 39, 40 và 41 là 3 phần riêng biệt của 1 bản giao hưởng lớn.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Wolfgang Amadeus Mozart hoàn thành bản giao hưởng số** 41 cung Đô trưởng**, K. 551, vào ngày 10 tháng 8 năm 1788. Nó là bản giao hưởng dài nhất và bản cuối cùng trong thể loại
**Giao hưởng số 1 cung Mi giáng trưởng, K. 16** là bản giao hưởng đầu tiên của nhà soạn nhạc người Áo Wolfgang Amadeus Mozart. Mozart viết bản nhạc này khi mới chỉ 8 tuổi.
**Giao hưởng số 36 cung Đô trưởng, K. 425**, hay còn gọi là **Giao hưởng Linz** là bản giao hưởng của nhà soạn nhạc người Áo Wolfgang Amadeus Mozart. Bản giao hưởng này được viết
**Giao hưởng số 38 giọng Rê trưởng K.504**, hay còn gọi là **Giao hưởng Prague** là tác phẩm dành cho dàn nhạc giao hưởng của nhà soạn nhạc thiên tài người Áo Wolfgang Amadeus Mozart.
thumb|Chân dung [[Joseph Haydn (1791)]] **Giao hưởng số 101 cung Rê trưởng** hay còn gọi là **Giao hưởng đồng hồ** là bản giao hưởng được nhà soạn nhạc Joseph Haydn viết vào năm 1793 hoặc
nhỏ|Tượng đài Mozart ở [[Viên.]] Nhạc sĩ thiên tài **Wolfgang Amadeus Mozart** (1756–1791) tuy có một cuộc sống ngắn ngủi khi mất ở tuổi 35, nhưng đã để lại cho nhân loại một kho tàng
nhỏ|phải|Joseph Haydn và Wolfgang Amadeus Mozart Có lẽ ít mối quan hệ nào trong lịch sử nhạc cổ điển đặc biệt và sâu sắc như mối quan hệ giữa Joseph Haydn và Wolfgang Amadeus Mozart.
nhỏ|Số 9 có phải là số định mệnh cho nhạc sĩ sáng tác giao hưởng ?.|110x110px Trong lịch sử âm nhạc, nhất là thời kì nhạc cổ điển, bản giao hưởng số 9 (symphony n°9)
thumb|Mozart, tranh vẽ năm 1770 khi 13 tuổi Danh sách các bản giao hưởng nghi ngờ không phải của Mozart này chứa 39 giao hưởng ban đầu được cho là của Mozart, nhưng đã được
**Wolfgang Amadeus Mozart** (; tên đầy đủ là **Johannes Chrysostomus Wolfgangus Theophilus Mozart** (27 tháng 1 năm 1756 – 5 tháng 12 năm 1791) là nhà soạn nhạc người Áo. Ông là một trong những
**Đô trưởng** (ký hiệu là **C**), hay **Si thăng trưởng** (ký hiệu là **B**), là một cung thể trưởng dựa trên nốt Đô (C), tức Si thăng (B), bao gồm các nốt sau: **Đô** (**C**),
**Giáo hoàng** (, ) là vị giám mục của Giáo phận Rôma, lãnh đạo tinh thần của Giáo hội Công giáo toàn thế giới. Theo quan điểm của Giáo hội Công giáo, giáo hoàng là
**George Frideric Handel** (tiếng Đức: **Georg Friedrich Händel**; hoặc **Georg Frederick Handel** ) (23 tháng 2 năm 1685 – 14 tháng 4 năm 1759) là nhà soạn nhạc người Anh gốc Đức thuộc thời kỳ
**Carl Nielsen** (1865–1931) được biết đến là nhà soạn nhạc danh tiếng nhất Đan Mạch, với nhiều cách tân trong sáng tác và đậm màu sắc âm nhạc truyền thống. Hình ảnh của ông đã
**Nhạc cho Thánh lễ Cầu siêu** hay còn gọi là **thánh lễ Missa cầu cho các linh hồn** là một thể loại nhạc tôn giáo. Các tác phẩm thuộc thể loại này thường mang tính
**Rê thứ** (thường được viết tắt là **Dm**) là một cung thứ có chất liệu sáng tác âm nhạc với cung chính là nốt Rê (D), bao gồm các nốt nhạc **Rê**, Đô, Si giáng,
**Rê trưởng** là một cung thể trưởng dựa trên nốt Rê (D), bao gồm các cao độ **Rê**, Mi (E), Fa thăng (F), Sol (G), La (A), Si (B), Đô thăng (C) và **Rê**. Hóa
**Placido Domingo** sinh năm 1941 tại Madrid, Tây Ban Nha. Cha mẹ ông đều là các ngôi sao của zarzuela, thể loại tương đương với hài kịch âm nhạc của Tây Ban Nha. Ông là
thumb|[[Vincenzo Bellini]] thumb|[[Claudio Monteverdi]] thumb|[[Ennio Morricone]] thumb|[[Giovanni Palestrina]] thumb|[[Giovanni Battista Pergolesi]] thumb|[[Giacomo Puccini]] thumb|[[Gioachino Rossini]] thumb|[[Domenico Scarlatti]] thumb|[[Giuseppe Verdi]] thumb|[[Antonio Vivaldi]] Đây là một danh sách theo thứ tự bảng chữ cái Latinh các nhà
**Đại học Leeds** là một viện đại học ở Leeds, Tây Yorkshire, Anh, thành lập vào năm 1831. Ban đầu nó có tên là Cao đẳng Khoa học Yorkshire và sau đó là Cao đẳng
**_Voyager 1_** là tàu thăm dò không gian được NASA phóng vào ngày 5 tháng 9 năm 1977, như một phần của chương trình Voyager nhằm nghiên cứu vòng ngoài Hệ Mặt Trời và môi
nhỏ|337x337px|Chân dung Sô-pen năm 25 tuổi - Tranh của nữ nghệ sỹ [[Maria Wodzińska, 1835]] **Frédéric Chopin** đã sáng tác khoảng hơn 240 nhạc phẩm, trong đó có 65 nhạc phẩm được ông cho đánh
Khu phố cổ Salzburg và Pháo đài Hohensalzburg **Salzburg** (Tiếng Đức Áo: ; ; nghĩa đen là "Salt Fortress" hay "Pháo đài muối"; tiếng Bayern: _Soizbuag_) là thủ phủ của tiểu bang cùng tên thuộc
Tháp nước Mannheim, biểu tượng của thành phố **Mannheim**, với dân số vào khoảng 320.000 người, là thành phố lớn thứ hai của bang Baden-Württemberg sau Stuttgart, nằm ở phía Tây nước Cộng hòa Liên
**Bratislava** () là thủ đô của Slovakia, có dân số 450.000 người, nó là một trong những thủ đô nhỏ của châu Âu nhưng vẫn là thành phố lớn nhất quốc gia này. Vùng đô
**Sven Magnus Qen Carlsen** (tiếng Na Uy: Sven Magnus Øen Carlsen, IPA: [svɛn ˈmɑ̀ŋnʉs øːn ˈkɑːɭsn̩]) sinh ngày 30 tháng 11 năm 1990 ) là một đại kiện tướng cờ vua người Na Uy, nguyên