✨Giải Grammy cho album của năm

Giải Grammy cho album của năm

Giải Grammy cho album của năm (tiếng Anh: Grammy Award for Album of the Year) là một hạng mục giải thưởng do Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Thu âm Quốc gia Hoa Kỳ trao tặng, nhằm "tôn vinh các cá nhân/tập thể có thành tựu nghệ thuật, kỹ thuật xuất sắc trong lĩnh vực thu âm, mà không xét đến doanh số bán album hay vị trí trên các bảng xếp hạng âm nhạc." Với tên gọi thông dụng là "The Big Award", album của năm vừa là hạng mục giải thưởng danh giá nhất tại giải Grammy, vừa là một trong bốn hạng mục lớn bên cạnh các giải nghệ sĩ mới xuất sắc nhất, thu âm của năm và bài hát của năm. Các giải này đều được trao tặng hàng năm kể từ lễ trao giải Grammy lần đầu tiên vào năm 1959. Đương kim giải thưởng là Beyoncé.

Luật nhận giải

Qua nhiều năm, ban tổ chức đã thay đổi quy định về những người được trao giải:

  • 1959–1965: Chỉ dành cho nghệ sĩ.
  • 1966–1998: Nghệ sĩ và nhà sản xuất nhạc.
  • 1999–2002: Nghệ sĩ, nhà sản xuất nhạc, kỹ sư thu âm hoặc người trộn âm.
  • 2003–2017: Nghệ sĩ, nghệ sĩ khách mời, nhà sản xuất, kỹ sư thu âm hậu kỳ, kỹ sư thu âm hoặc người trộn âm (mixer).
  • 2018–2020: Nghệ sĩ, nghệ sĩ khách mời, nhạc sĩ sáng tác bài hát (mới), kỹ sư thu âm hậu kỳ, kỹ sư thu âm hoặc người trộn âm (chỉ dành cho những người được đề tên trong ít nhất 33% thời lượng của album)
  • 2021–2023: Nghệ sĩ, nghệ sĩ khách mời, nhà sản xuất nhạc, nhạc sĩ sáng tác bài hát (mới), kỹ sư thu âm hậu kỳ, kỹ sư thu âm và người trộn âm (không xét đến thời lượng được đề tên trong album)
  • 2024–: Nghệ sĩ, nghệ sĩ khách mời, nhạc sĩ sáng tác bài hát (mới), kỹ sư thu âm hậu kỳ, kỹ sư thu âm hoặc người trộn âm (chỉ dành cho những người được đề tên trong ít nhất 20% thời lượng của album)

Số lượng đề cử của hạng mục lần lượt được mở rộng lên tám đề cử (2019) và mười đề cử (2022). Bắt đầu từ lễ trao giải năm 2024, số lượng đề cử đã được điều chỉnh lại thành tám đề cử.

Album của năm được trao cho toàn bộ album, giải thưởng này được trao cho nghệ sĩ, nghệ sĩ khách mời, nhà sản xuất nhạc, kỹ sư thu âm hậu kỳ, kỹ sư thu âm và người trộn âm có đóng góp đáng kể lên album ấy. Giải tương tự là thu âm của năm - được trao cho một đĩa đơn hoặc một bài của album. Giải này được trao cho nghệ sĩ, nhà sản xuất nhạc, kỹ sư thu âm hậu kỳ, kỹ sư thu âm hoặc người trộn âm cho bài hát đó.

Thành tích

nhỏ|upright|[[Taylor Swift là người thắng giải thưởng đến bốn lần. Cô là phụ nữ đầu tiên thắng cử hai và ba lần, đồng thời là nghệ sĩ duy nhất được đề tên chính cho cả bốn lần chiến thắng. Cô thắng cử vào các năm 2010, 2016, 2021 và 2024. Cô là nữ nghệ sĩ nhận được nhiều đề cử nhất (7 đề cử).]] nhỏ|upright|[[Frank Sinatra là nghệ sĩ đầu tiên thắng cử hai lần và chung cuộc đoạt được ba giải. Ông thắng cử vào các năm 1960, 1966 và 1967. Ông là nghệ sĩ nhận được nhiều đề cử nhất (8 lần) ở hạng mục này.]] nhỏ|upright|[[Stevie Wonder đã thắng cử đến ba lần vào các năm 1974, 1975 và 1977.]] nhỏ|upright|[[Paul Simon có ba lần thắng cử, gồm hai lần được đề tên là nghệ sĩ chính (1976 và 1987).]] nhỏ|upright|[[U2 là nhóm nhạc duy nhất có hai lần đoạt giải (1988 và 2006).]] nhỏ|upright|[[Adele đã thắng cử hai lần vào các năm 2012 và 2017.]] Serban Ghenea (làm kỹ sư thu âm/người trộn âm) là người thường xuyên chiến thắng hạng mục này nhất với năm giải. Taylor Swift (làm nghệ sĩ biểu diễn), John Hanes (làm kỹ sư thu âm/người trộn âm), Tom Coyne và Randy Merrill (làm kỹ sư thu âm hậu kỳ) đã có bốn lần đoạt giải. Tiếp đến là Frank Sinatra, Stevie Wonder và Paul Simon (làm nghệ sĩ biểu diễn); Jack Antonoff, David Foster, Daniel Lanois, Phil Ramone và Ryan Tedder (làm nhà sản xuất album); Tom Elmhirst, Mike Piersante và Laura Sisk (làm kỹ sư thu âm/người trộn âm); và Bob Ludwig (làm kỹ sư thu âm hậu kỳ). Mỗi cá nhân đều có ba lần giành chiến thắng. Coyne, Ghenea, Hanes và Ludwig là những người duy nhất thắng giải ba năm liên tiếp. Trong số các nghệ sĩ biểu diễn, Paul McCartney dẫn đầu với chín đề cử: năm lần khi là thành viên của The Beatles, ba lần với album solo và một lần với tư cách thành viên của Wings. George Harrison (cựu đồng đội ban nhạc của McCartney) nắm giữ tổng cộng tám đề cử: năm lần khi là thành viên của The Beatles, một lần cho album solo, một lần cho album trực tiếp với bạn bè và một lần với tư cách thành viên của Traveling Wilburys. Sinatra dẫn đầu trong số các nghệ sĩ biểu diễn solo với tám đề cử: bảy lần cho các album solo và một lần cho album song ca. Taylor Swift sở hữu nhiều đề cử nhất (10 đề cử) trong số các nghệ sĩ nữ, kế đến là Barbra Streisand (6 đề cử). Swift cũng là nghệ sĩ biểu diễn đầu tiên giành chiến thắng hạng mục này đến bốn lần. Taylor Swift là nữ nghệ sĩ solo đầu tiên giành hai giải trở lên. Jones giành giải lần hai với tư cách nghệ sĩ khách mời trong album River: The Joni Letters của Herbie Hancock, còn Krauss thắng cử lần hai nhờ làm nghệ sĩ khách mời trong album soundtrack O Brother, Where Art Thou?.

Năm 2020, Billie Eilish (18 tuổi) là người trẻ nhất thắng cử khi được đề tên nghệ sĩ chính, sau chiến thắng với album When We All Fall Asleep, Where Do We Go?. The Peasall Sisters, Sarah (13 tuổi), Hannah (9 tuổi) và Leah (7 tuổi) là những người nhỏ tuổi nhất thắng cử hạng mục sau khi được ghi công đóng góp cho album soundtrack O Brother, Where Art Thou? – Soundtrack. Leah Peasall là người nhỏ tuổi nhất từng chiến thắng một hạng mục bất kỳ của Grammy. Người nhỏ tuổi nhất từng xuất hiện trong một tác phẩm giành giải album của năm là Aisha Morris (con gái của Stevie Wonder), cô bé xuất hiện lúc còn rất nhỏ trong bài "Isn't She Lovely?" của album Songs in the Key of Life.

Christopher Cross và Billie Eilish là những nghệ sĩ duy nhất giành trọn bộ bốn "hạng mục chính" của Grammy trong một năm, gồm album của năm, thu âm của năm, bài hát của năm và nghệ sĩ mới xuất sắc nhất. Adele là nghệ sĩ đầu tiên đoạt giải album của năm, bài hát của năm, nghệ sĩ mới xuất sắc nhất và thu âm của năm trong các năm khác nhau. Năm nghệ sĩ được vinh danh giải album của năm và nghệ sĩ mới xuất sắc nhất trong cùng một năm gồm: Bob Newhart (The Button-Down Mind of Bob Newhart vào năm 1961), Lauryn Hill (The Miseducation of Lauryn Hill vào năm 1999), Norah Jones (Come Away with Me vào năm 2003), Christopher Cross (Christopher Cross vào năm 1981) và Billie Eilish (When We All Fall Asleep, Where Do We Go? vào năm 2020).

Một số tác phẩm tạo nên cột mốc ở giải album của năm: Come Dance with Me! của Frank Sinatra là album nhạc traditional pop giành chiến thắng; Getz/Gilberto của Stan Getz và João Gilberto là album jazz đầu tiên thắng cử; Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band của The Beatles là tác phẩm rock đầu tiên thắng giải; By the Time I Get to Phoenix của Glen Campbell là album đồng quê đầu tiên chiến thắng; The Miseducation of Lauryn Hill của Hill là album hip hop đầu tiên thắng cử;

Frank Sinatra và Stevie Wonder là những người duy nhất thắng cử hai năm liên tiếp khi được đề tên là nghệ sĩ chính: Sinatra thắng cử vào các năm 1966 (September of My Years) và 1967 (A Man and His Music), còn Wonder thắng cử vào các năm 1974 (Innervisions) và 1975 (Fulfillingness' First Finale). Lauryn Hill và Bruno Mars cũng giành giải hai năm liên tiếp, nhưng một lần họ thắng là trong vai trò sản xuất thay vì nghệ sĩ. Năm 2000, Hill thắng cử trong vai trò sản xuất sau khi từng thắng cử trong vai trò nghệ sĩ vào năm 1999.

The Beatles là những nghệ sĩ đầu tiên duy nhất (tính đến nay) được đề cử giải album của năm trong năm năm liên tiếp (1966–1970). Frank Sinatra nhận được đề cử trong bốn năm liên tiếp giai đoạn 1959–1961 (hai đề cử tại lễ trao giải đầu tiên vào năm 1959). Ông nhận thêm ba đề cử liên tiếp nữa trong giai đoạn 1966–1968. Barbra Streisand (1964–1967) và Kendrick Lamar (2016–2019) cũng nhận được đề cử trong bốn năm liên tiếp, trong khi Lady Gaga (2010–2012) được đề cử hạng mục trong ba năm liên tiếp.

Beyoncé, Billy Joel, Kendrick Lamar và Taylor Swift là những nghệ sĩ biểu diễn duy nhất được đề cử album của năm nhờ bốn album phòng thu liên tiếp, trong khi The Beatles, Stevie Wonder, Steely Dan, Bonnie Raitt, Dixie Chicks, Kanye West, Lady Gaga, Adele và Billie Eilish chỉ nhận được đề cử cho ba album phòng thu liên tiếp. Stevie Wonder và Adele là hai nghệ sĩ duy nhất thắng cử hạng mục nhờ các album ra mắt liên tiếp. Wonder thắng cử cho Innervisions, Fulfillingness' First FinaleSongs in the Key of Life, còn Adele thắng cử cho 2125.

Quincy Jones, Lauryn Hill và Bruno Mars là những nghệ sĩ biểu diễn duy nhất giành giải khi được đề tên nghệ sĩ chính và nhà sản xuất. Họ giành giải với tư cách nghệ sĩ chính cho các album Back on the Block(Jones), The Miseducation of Lauryn Hill (Hill) và 24K Magic (Mars), ngoài ra họ còn đoạt giải với tư cách sản xuất các album Thriller của Michael Jackson (với Jones), Supernatural của Santana (với Hill) và 25 của Adele (với Mars). Đóng góp của Mars cho album 25 được ghi danh dưới tên đội sản xuất The Smeezingtons. Những tác phẩm này được trình bày trực tiếp trước một lượng khán giả nhỏ. Một đĩa nhạc soundtrack truyền hình là The Music from Peter Gunn cũng có hai lần được ghi danh chiến thắng. Hai album hài kịch từng giành chiến thắng hạng mục gồm: The Button-Down Mind of Bob NewhartThe First Family.

Ban nhạc và nghệ sĩ có nhiều lần chiến thắng

Tám nghệ sĩ đã có hai lần trở lên đoạt giải (không xét đến ghi danh là nghệ sĩ chính, bộ đôi hay ban nhạc, đồng thời không phân biệt là nhà sản xuất, người trộn âm hay kỹ sư thu âm).

Ghi chú

Quy trình

Từ năm 1995 đến năm 2021, các thành viên của Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Thu âm Quốc gia đã đưa ra những ứng viên được đề cử giải album của năm. Một danh sách gồm 20 đĩa nhạc dẫn đầu được nộp cho Ủy ban đánh giá đề cử (Nominations Review Committee) - một nhóm thành viên ẩn danh được sàng lọc đặc biệt. Sau đó họ sẽ chọn ra năm đĩa nhạc dẫn đầu để trao một đề cử hạng mục cho từng tác phẩm qua một cuộc bỏ phiếu đặc biệt. Các thành viên còn lại tiếp tục bình chọn tác phẩm thắng cử trong số 5 đề cử kia. Năm 2018, ban tổ chức thông báo số lượng album được đề cử đã tăng lên tám album. Năm 2021, Viện hàn lâm thông báo Ủy ban đánh giá đề cử sẽ bị giải thể, còn các đề cử cuối cùng cho album của năm sẽ được quyết định qua các lá phiếu do thành viên của Viện bầu chọn. Bắt đầu từ năm 2022, số lượng đề cử hạng mục tăng lên 10 đề cử. Tuy nhiên, quyết định tăng số lượng đề cử này được đưa ra 24 giờ trước khi các đề cử chính thức được công bố, dù cho Viện hàn lâm đã hoàn thành danh sách sơ bộ các đề cử. Sự việc đã tạo điều kiện cho Evermore của Taylor Swift và Donda của Kanye West nhận được đề cử, khi mà các album này nhận được số phiếu bầu chọn cao nhất cùng tám đề cử khác. Tính đến lễ trao giải năm 2024, số đề cử đã được giảm xuống còn tám đề cử.

Đề cử và chiến thắng

Thập niên 1950

Thập niên 1960

Thập niên 1970

Thập niên 1980

Thập niên 1990

Thập niên 2000

Thập niên 2010

Thập niên 2020

Ghi chú

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Giải Grammy cho album của năm** (tiếng Anh: _Grammy Award for Album of the Year_) là một hạng mục giải thưởng do Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Thu âm Quốc gia Hoa
**_21_** là album phòng thu thứ hai của nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Anh Adele, phát hành lần lượt ngày 24 tháng 1 năm 2011 ở châu Âu bởi hãng đĩa XL
**Giải Grammy cho Album R&B đương đại xuất sắc nhất** là một hạng mục được trao tại giải Grammy, một buổi lễ được thành lập vào năm 1958 và ban đầu có tên là giải
**Giải Grammy cho album nhạc alternative xuất sắc nhất** là một hạng mục trong lễ trao giải Grammy, được thành lập vào năm 1958 và có tên gọi ban đầu là giải Gramophone, được trao
**_25_** là album phòng thu thứ ba của ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Anh Adele, phát hành ngày 20 tháng 11 năm 2015 bởi XL Recordings và Columbia Records. Sau thành công rực
**Giải Grammy cho album rock xuất sắc nhất** là một hạng mục trong lễ trao giải Grammy, được thành lập vào năm 1958 và có tên gọi ban đầu là Giải Gramophone, được trao cho
**_Fearless_** là album phòng thu thứ hai của ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Mỹ Taylor Swift, phát hành ngày 11 tháng 11 năm 2008 bởi Big Machine Records. Sau những thành công đáng
**_Faith_** là album phòng thu đầu tay của nghệ sĩ thu âm người Anh quốc George Michael, phát hành ngày 30 tháng 10 năm 1987 bởi Columbia Records và Epic Records. Sau những thành công
**_The Suburbs_** là album phòng thu thứ ba của ban nhạc indie rock Canada Arcade Fire, phát hành vào tháng 8 năm 2010. Album ra mắt ở vị trí số 1 trên các bảng xếp
**_The Bodyguard: Original Soundtrack Album_** là album nhạc phim cho bộ phim cùng tên, phát hành ngày 17 tháng 11 năm 1992 bởi Arista Records và BMG Entertainment. Album bao gồm sáu bản nhạc được
**_Supernatural_** là album phòng thu thứ 17 của ban nhạc Santana, được phát hành vào ngày 15 tháng 6 năm 1999. Album do Clive Davis sản xuất và được phát hành và phân phối bởi
**_Let Go_** là album phòng thu đầu tay của ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát người Canada Avril Lavigne, do Arista Records phát hành vào ngày 4 tháng 6 năm 2002. Giới
**_Millennium_** là album phòng thu thứ ba (thứ hai ở Hoa Kỳ) của ban nhạc pop nước Mỹ Backstreet Boys, phát hành ngày 18 tháng 3 năm 1999 bởi Jive Records như là một đợt
Giải Grammy dành cho album Latin Rock xuất sắc nhất hay còn được trao tặng cho trình diễn nhạc Latin Rock xuất sắc nhất.Đề mục này được bắt đầu vào năm 1998 đến nay Maná
**Giải Grammy cho nhạc nền xuất sắc nhất cho phim ảnh** bắt đầu được trao tặng từ năm 1960. Cho đến trước năm 2001, giải thưởng chỉ trao cho các nhà soạn nhạc của bộ
**_Loose_** là album phòng thu thứ ba của ca sĩ người Canada Nelly Furtado, phát hành ngày 7 tháng 6 năm 2006 bởi Geffen Records và Mosley Music Group. Sau khi thử sức với pop
Sau đây là một số **kỷ lục của giải Grammy**. Trang này chỉ ghi nhận các kỷ lục thuộc nghệ sĩ, nhà sản xuất và một số thành phần sản xuất âm nhạc, không bao
**Giải Grammy** (cách điệu là **GRAMMY**; ban đầu được gọi là **Giải Gramophone**), hoặc đơn giản là **Grammy**, là giải thưởng do Viện hàn lâm Thu âm trao tặng để ghi nhận các thành tựu
**_Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band_** là album phòng thu thứ tám của ban nhạc rock người Anh The Beatles phát hành vào ngày 26 tháng 5 năm 1967. _Sgt. Pepper_ được nhiều nhà âm
**Giải Grammy lần thứ 57** được tổ chức vào ngày 8 tháng 2 năm 2015, tại Trung tâm Staples ở Los Angeles, California. Chương trình được truyền hình trực tiếp trên đài CBS lúc 5:00
**_Thriller_** là album phòng thu thứ sáu của ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát người Mỹ Michael Jackson, được phát hành vào ngày 29 tháng 11 năm 1982 bởi Epic Records. Nhạc
**_Raising Sand_** là album phòng thu của ca sĩ nhạc rock Robert Plant và nữ ca sĩ nhạc bluegrass-đồng quê Alison Krauss, được phát hành ngày 23 tháng 10 năm 2007 bởi Rounder Records. Album
**_Recovery_** là album phòng thu thứ bảy của rapper người Mỹ Eminem, phát hành vào ngày 18 tháng 6 năm 2010 bởi Shady Records, Interscope Records và Aftermath Entertainment. Sau khi trở lại ngành công
**Giải Grammy lần thứ 51** đã diễn ra tại Trung tâm Staples ở Los Angeles vào 8 tháng 2 năm 2009. Robert Plant và Alison Krauss đã trở thành những người thắng giải nhiều nhất
**_Love for Sale_** là album hợp tác thứ hai của ca sĩ người Mỹ Tony Bennett và Lady Gaga, phát hành ngày 30 tháng 9 năm 2021 bởi Streamline Records, Columbia Records và Interscope Records.
**_Getz/Gilberto_** là album phòng thu của nghệ sĩ saxophone Stan Getz và nghệ sĩ guitar João Gilberto, được phát hành vào tháng 3 năm 1964 bởi Verve Records. Nhạc sĩ và nghệ sĩ piano Antônio
**Giải Grammy cho** **Bài hát của năm** là một trong bốn hạng mục quan trọng nhất trong hệ thống giải thưởng âm nhạc Grammy của Mỹ, cùng với Album của năm, Thu âm của năm
Giải Grammy dành cho Album nhạc pop Latinh xuất sắc nhất được bắt đầu trao vào năm 1984. Hạng mục này có những thay đổi về tên như sau: * Từ năm 1984 đến năm
**_Rumours_** (tạm dịch: _Những tin đồn_) là album phòng thu thứ 11 của ban nhạc rock người Anh-Mỹ Fleetwood Mac. Được chủ yếu thực hiện tại California trong năm 1976, album là sản phẩm hợp
**_Saturday Night Fever: The Original Movie Sound Track_** là một album nhạc phim của bộ phim _Saturday Night Fever_ (1977) do John Travolta thủ vai chính. Nó được phát hành vào ngày 15 tháng 11
**_24K Magic_** (cách điệu: **_XXIVK Magic_**) là album phòng thu thứ ba của ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Mỹ Bruno Mars, phát hành ngày 18 tháng 11 năm 2016 bởi Atlantic Records. Được
**Giải Grammy cho thu âm của năm** (tiếng Anh: **Grammy Award for Record of the Year**) là một hạng mục trong giải Grammy do Viện thu âm nghệ thuật và khoa học quốc gia trao
**_Voyage_** là album phòng thu thứ chín của nhóm nhạc pop người Thụy Điển ABBA, phát hành ngày 5 tháng 11 năm 2021 bởi Polar Music và Universal Music. Đây là album đầu tiên của
**Giải Grammy cho Trình diễn hát rap xuất sắc nhất** (từng được gọi là **Hợp tác rap/hát xuất sắc nhất** cho đến năm 2017, và **Trình diễn rap/hát hay nhất** từ năm 2018–2020) là một
**Giải Grammy cho bài hát rock xuất sắc nhất** là một hạng mục nằm trong giải Grammy - giải thưởng ra đời vào năm 1958 và ban đầu có tên gọi là giải Gramophone, được
**Giải Grammy cho trình diễn song tấu hoặc nhóm nhạc giọng rock xuất sắc nhất** là một hạng mục trong giải Grammy (trước đây có tên là giải Gramophone), được Viện hàn lâm Nghệ thuật
**_Unplugged_** là album trực tiếp của Eric Clapton, được phát hành vào năm 1992. Album được thu âm từ buổi diễn hoàn toàn các nhạc cụ mộc _MTV Unplugged_, bao gồm những ca khúc nổi
**_Fallen_** là album phòng thu đầu tay của ban nhạc rock Mỹ Evanescence, phát hành ngày 4 tháng 3 năm 2003 thông qua hãng đĩa Wind-up Records và Epic Records. Sau khi phát hành một
**_Kiss_** là album phòng thu thứ hai của ca sĩ người Canada Carly Rae Jepsen, phát hành ngày 14 tháng 9 năm 2012 bởi 604 Records, Schoolboy Records và Interscope Records. Đây cũng là đĩa
**_1989_** là album phòng thu thứ năm của nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát người Mỹ Taylor Swift, được hãng đĩa Big Machine Records phát hành vào ngày 27 tháng 10
**Giải Grammy cho trình diễn giọng rock nữ xuất sắc nhất** (tiếng Anh: _Grammy Award for Best Female Rock Vocal Performance_) là một hạng mục nằm trong giải Grammy – giải thưởng ra đời vào
**_Golden Hour_** (tạm dịch: _Giai đoạn Vàng son_) là album phòng thu thứ tư của nữ ca sĩ kiêm người viết bài hát nhạc đồng quê người Mỹ Kacey Musgraves, phát hành vào ngày 30
**_Christopher Cross_** là album đầu tay của ca sĩ - nhạc sĩ người Mỹ Christopher Cross. Album được thu âm vào giữa năm 1979 và được phát hành vào tháng 12 cùng năm. Album ban
**_Lovers Rock_** là album phòng thu thứ năm của ban nhạc người Anh Sade, phát hành ngày 13 tháng 11 năm 2000 bởi Epic Records. Sau khi kết thúc quá trình quảng bá cho album
**_Dangerously in Love_** là album phòng thu đầu tay của ca sĩ người Mỹ Beyoncé, phát hành ngày 23 tháng 6 năm 2003 bởi Columbia Records và Music World Entertainment. Trong quá trình thu âm
**_Folklore_** (viết cách điệu: **_folklore_**) là album phòng thu thứ tám của nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Mỹ Taylor Swift, được hãng đĩa Republic Records phát hành bất ngờ vào ngày 24
**Giải Grammy cho trình diễn hard rock xuất sắc nhất** (tiếng Anh: _Grammy Award for Best Hard Rock Performance_) là hạng mục của giải Grammy được trao cho các nghệ sĩ thu âm từ năm
Tập tin:Grammy Award.jpg **Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất** là một trong bốn hạng mục quan trọng nhất trong hệ thống giải thưởng âm nhạc Grammy của Mỹ (cùng với Thu âm của năm, Album
**Giải Grammy cho hợp tác giọng pop xuất sắc nhất** (tiếng Anh: _Grammy Award for Best Pop Collaboration with Vocals_) là một hạng mục của giải Grammy - giải thưởng ra đời năm 1958 và
**_Beyoncé_** là album phòng thu thứ năm của ca sĩ người Mỹ Beyoncé, phát hành ngày 13 tháng 12 năm 2013 bởi Parkwood Entertainment và Columbia Records. Được mô tả như một album thị giác,