✨François-René de Chateaubriand

François-René de Chateaubriand

nhỏ|François-René de Chateaubriand, vẽ bởi [[Anne-Louis Girodet de Roussy-Trioson, đầu thế kỷ 19]] François-René, Tử tước của Chateaubriand (4 tháng 9 năm 1768 - 4 tháng 7 năm 1848) là một nhà văn, chính trị gia và nhà ngoại giao người Pháp. Ông được coi là người sáng lập ra trào lưu lãng mạn trong văn học Pháp.

Cuộc đời

Đầu đời

Sinh tại Saint-Malo, là con út trong gia đình 10 con, Chateaubriand lớn lên trong thành ở Combourg, Bretagne. Bố ông, René de Chateaubriand (1718-1786), là một cựu thuyền trưởng chuyển sang buôn bán tàu và nô lệ. Mẹ ông là Apolline de Bedée. Cha của Chateaubriand là một người trầm tính và ít nói, do vậy Chateaubriand lớn trong một gia đình cô đơn, ít có bạn bè, ông chỉ có thể làm bạn với con đường dài ở vùng đồng quê Bretagne cùng người chị gái.

Chateaubriand học ở Dol, Rennes và Dinan. Có một quãng thời gian ông không định hướng được nghề nghiệp của mình là muốn trở thành thủy thủ hay một thầy tu, nhưng đến năm 17 tuổi, Chateaubriand quyết định gia nhập quân đội và nhận nhiệm vụ làm trung úy hải quân cho quân đội Pháp ở Navarre. Trong vòng hai năm, ông đã được thăng lên chức thuyền trưởng. Chateaubriand tới thăm Paris năm 1788, nơi mà ông có dịp tiếp xúc với những văn hào hàng đầu của Pháp thời đó như Jean-François de La Harpe, André Chénier, Louis-Marcelin de Fontanes. Khi Cách mạng Pháp bùng nổ, Chateaubriand ban đầu chấp nhận ở lại, nhưng khi tình hình ở Paris trở nên căng thẳng, ông đã du hành tới Bắc Mỹ năm 1791. Kinh nghiệm chuyến đi đã đem lại cho ông tác phẩm Les Natchez (viết từ giai đoạn 1793 và 1799, xuất bản năm 1826), Atala (1801) và René (1802). Lối miêu tả thiên nhiên sáng sủa và lôi cuốn về vùng đất phía nam Hoa Kỳ của ông là một cách viết tân thời khi đó và là tiền đề cho sự phát triển của phong trào lãng mạn ở Pháp. Sau đó các nhà học giả nghi ngờ tuyên bố của Chateaubriand rằng ông đã được quyền phỏng vấn George Washington.

Chateaubriand trở lại Pháp năm 1792 và gia nhập quân đội Hoàng gia émigrés tại Coblenz dưới sự lãnh đạo của Louis Joseph de Bourbon, Hoàng tử của Condé. Dưới sức ép gia đình, ông chấp nhận kết hôn với một phụ nữ quý tộc ở Saint Malo tên là Céleste Buisson de la Vigne, người mà trước đó Chateaubriand chưa bao giờ gặp, sau này Chateaubriand không tin tưởng vào vợ và gặp nhiều vấn đề trong tình cảm, tuy vậy thì cặp đôi này lại không bao giờ ly hôn. Sự nghiệp quân sự của Chateaubriand chấm dứt không ông bị thương trong trận Thionville, một trận chiến lớn giữa lực lượng Hoàng gia và Quân đội Cách mạng Pháp. Chateaubriand được đưa tới Jersey và bị đầy tới Anh, bỏ lại người vợ phía sau.

Chateaubriand phải trải qua một cuộc sống vô cùng đói khổ ở London, ông phải sống qua ngày bằng việc đi xin dạy tiếng Pháp và dịch thuật. Tuy vậy thì trong thời gian ở Suffolk, ông yêu một phụ nữ trẻ người Anh, Charlotte Ives, nhưng cuộc tình lãng mãn không kéo được lâu khi Chateaubriand bị ép phải thừa nhận đã kết hôn. Trong thời gian ở Anh, Chateaubriand trở nên hiểu biết nhiều hơn về văn học Anh. Tác phẩm Paradise Lost của John Milton (mà sau này ông dịch sang tiếng Pháp) đã có ảnh hưởng to lớn tới văn học của Chateaubriand.

Cuộc lưu đày đã buộc Chateaubriand tìm hiểu về nguyên nhân của Cách mạng Pháp, một cuộc cách mạng đã làm hy sinh mạng sống của nhiều thành viên trong gia đình ông; điều này là nguồn cảm hứng cho tác phẩm Essai sur les Révolutions (1797). Bước chuyển lớn trong cuộc đời Chateaubriand là ông đã lấy lại niềm tin vào Giáo hội Công giáo vào năm 1798.

Chức lãnh sự và đế quốc

Chateaubriand tận dụng lệnh ân xá để trở lại Pháp tháng 5 năm 1800, ông biên tập tạp chí Mercure de France. Năm 1802, ông giành được danh tiếng với tác phẩm Génie du christianisme, một sự tạ lỗi cho niềm tin Thiên chúa đã đóng góp cho sự phục sinh tín ngưỡng thời hậu cách mạng. Tác phẩm cũng nhận được cảm tình của Napoléon Bonaparte, người đang rất muốn chiến thắng giáo hội vào thời điểm đó.

Chateaubriand được Napoléon bổ nhiệm chức công sứ tòa thánh, ông được chỉ định đi cùng Joseph Fesch tới Roma. Nhưng hai người nhanh chóng bất đồng và Chateaubriand sau đó được bổ nhiệm làm công sứ ở Valais (Thụy Sĩ). Ông quyết định từ chức do phấn nỗ sau khi Napoléon yêu cầu xử tử Công tước của Enghien năm 1804. Chateaubriand phải chấp nhận cuộc sống mưu sinh bằng văn chương. Ông lên kế hoạch viết một bản sử thi bằng văn xuôi, Les Martyrs, trong thời kỳ xảy ra sự ngược đãi tín đồ cơ đốc ở Rome. Năm 1806, Chateaubriand thăm Hy Lạp, Tiểu Á, Palestine, Ai Cập và Tây Ban Nha để nghiên cứu cho cuốn sách. Những ghi chép của ông trong những chuyến đi sau đó được hợp thành tác phẩm Itinéraire de Paris à Jérusalem (Itinerary from Paris to Jerusalem), xuất bản năm 1811. Chuyến đi tới Tây Ban Nha lại là nguồn cảm hứng cho tiểu thuyết ngắn Les aventures du dernier Abencérage, xuất hiện năm 1826. Khi trở về Pháp Chateaubriand cho xuất bản những bài chỉ trích gay gắt về Napoléon, so sánh ông với Nero và tiên đoán sự nổi lên của một Tacitus mới. Hoàng đế Napoléon cuối cùng đã trục xuất Chateaubriand khỏi Paris.

Chateaubriand quyết định tới sống ở Châtenay-Malabry, cách trung tâm Paris 11 km (7 dặm) về phía nam. Tại đây, ông đã hoàn thành cuốn Les Martyrs, ra mắt năm 1809 và bắt đầu viết các bản thảo hồi ký. Ông được bổ nhiệm vào viện Hàn lâm Pháp năm 1811. Tuy nhiên, do bài phát biểu chỉ trích cuộc cách mạng Pháp nên Chateaubriand không thể giữ được chức cho đến sự phục hoàng của nhà Bourbon. Các bạn thân văn chương thời này có Madame de Staël, Joseph Joubert và Pierre-Simon Ballanche.

Dưới thời Bourbon phục hoàng

Sau sự sụp đổ của Đệ nhất đế chế, Chateaubriand tập hợp với nhà Bourbon. Vào ngày 30 tháng 3 năm 1814, ông viết một cuốn sách chỉ trích Napoléon, với tiêu đề De Buonaparte et des Bourbons, trong đó hàng nghìn bản copy đã được xuất bản. Sau đó Chateaubriand theo Louis XVIII trong chuyến lưu đày tới Ghent trong thời gian Vương triều 100 ngày (tháng 3- tháng 7 năm 1815) và được đề cử làm đại sứ tới Thụy Điển.

Sau thất bại của Pháp, Chateaubriand, người tuyên bố cảm thấy kinh hoàng trước việc xử tử công tước d'Enghien, đã bỏ phiếu đồng ý việc xử tử Marshall Ney tại nhà nghị viện tháng 12 năm 1815.

Quân chủ tháng Bảy

Năm 1830, sau Cách mạng tháng Bảy, Chateaubriand từ chối thề trung thành với Louis-Philippe I, vị vua mới của nhà Bourbon-Orléans. Kết thúc sự nghiệp chính trị, Chateaubriand viết cuốn Mémoires d'outre-tombe (xuất bản 1848–1850 sau khi mất).

Tác phẩm

thumb|Itinéraire de Paris à Jérusalem et de Jérusalem à Paris, 1821

  • Essai sur les révolutions (1797)
  • Atala (1801) tiểu thuyết
  • René (1802) tiểu thuyết
  • Génie du christianisme (Tinh thần Thiên Chúa giáo) (1802)
  • Les Martyrs (1809)
  • Itinéraire de Paris à Jérusalem (1811)
  • Mémoires sur la vie et la mort du duc de Berry (1820)
  • Les Natchez (1826)
  • Les Aventures du dernier Abencérage (1826)
  • Voyage en Amérique (1827)
  • Études historiques (1831)
  • La Vie de Rancé (1844)
  • Mémoires d'Outre-Tombe (Hồi ức từ bên kia thế giới) (1848–1850)
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|François-René de Chateaubriand, vẽ bởi [[Anne-Louis Girodet de Roussy-Trioson, đầu thế kỷ 19]] **François-René**, Tử tước của Chateaubriand (4 tháng 9 năm 1768 - 4 tháng 7 năm 1848) là một nhà văn, chính trị
**Charles X** (Charles Philippe; 9 tháng 10 năm 1757 – 6 tháng 11 năm 1836) là Vua của Pháp từ ngày 16 tháng 9 năm 1824 đến khi thoái vị vào ngày 2 tháng 8
**Victor-Marie Hugo** (; (26 tháng 2, 1802 - 22 tháng 5, 1885 tại Paris) là một chính trị gia, thi sĩ, nhà văn, và kịch gia thuộc chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng của Pháp.
**Frédéric Antoine Ozanam** (23 tháng 4 năm 1813 – 8 tháng 9 năm 1853) là một học giả người Pháp. Ông cùng với những sinh viên bạn học đã sáng lập Hội Bác ái (_Conférence
**Saint-Malo / Sant-Maloù** là một xã trong tỉnh Ille-et-Vilaine, thuộc vùng hành chính Bretagne của nước Pháp, có dân số là 50675 người (thời điểm 1999). Nổi tiếng vì khu phố trung tâm và pháo
[[Caspar David Friedrich, _Kẻ lãng du trên biển sương mù,_ 38.58 × 29.13 inches, 1818, tranh sơn dầu, Kunsthalle Hamburg]] [[Eugène Delacroix, _Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân_ 1830]] Théodore Géricault, _[[Chiếc bè
Một khẩu súng thần công của [[Đế quốc Nga.]] **Súng thần công** (tiếng Anh: _cannon_) là một loại pháo sử dụng thuốc súng hoặc thường là các loại nhiên liệu có nguồn gốc chất nổ
**Chủ nghĩa bảo thủ** (tiếng Pháp: _conservatisme_, tiếng Anh: _conservatism_, gốc từ tiếng Latinh _conservo_ — giữ gìn) là các triết lý chính trị và xã hội thúc đẩy các thiết chế xã hội truyền
**_Những người khốn khổ_** (Tiếng Pháp: **_Les Misérables_**) là tiểu thuyết của văn hào Pháp Victor Hugo, được xuất bản năm 1862. Tác phẩm được đánh giá là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng
Mô hình [[động cơ hơi nước của James Watt. Sự phát triển máy hơi nước khơi mào cho cuộc cách mạng công nghiệp Anh.]] **Cuộc cách mạng công nghiệp** hay còn gọi là **Cách mạng
Năm **1768** (số La Mã: MDCCLXVIII) là một năm nhuận bắt đầu từ ngày Thứ Sáu trong lịch Gregory (hoặc là một năm nhuận bắt đầu từ ngày thứ ba của lịch Julius chậm hơn
**Atala** (định danh hành tinh vi hình: **152 Atala**) là một tiểu hành tinh lớn và tối ở vành đai chính, thuộc kiểu D, nghĩa là gồm cacbon, silicate giàu hợp chất hữu cơ và
nhỏ| **Chủ nghĩa quân chủ** là một khái niệm chính trị cho rằng chế độ quân chủ là hình thức chính thể lý tưởng nhất. Những người theo chủ nghĩa quân chủ ủng hộ việc
**Louis XIV của Pháp** (; 5 tháng 9 năm 16381 tháng 9 năm 1715), còn được gọi là **Louis Đại đế** (, ) hay **Vua Mặt Trời** (, ), là một quân chủ thuộc Nhà