Dân tộc thiểu số nghĩa là một nhóm không đồng nhất mình với một quốc gia khác (ngày nay) trong khi đang sống trong lãnh thổ Ba Lan. Ngoại tộc thiểu số ở Ba Lan - các cộng đồng sống ở Ba Lan tự nhận mình là người dân quốc gia khác ngoài Ba Lan.
Theo Đạo luật ngày 6 tháng 1 năm 2005 về Dân tộc, Dân tộc thiểu số và Ngôn ngữ khu vực , các nhóm thiểu số này được phân tách dựa trên tổng số 6 tiêu chí. Các nhóm này có quy mô đặc biệt nhỏ, có tổ tiên cư trú trên lãnh thổ Cộng hòa Ba Lan ít nhất 100 năm. Định nghĩa này cũng đưa ra một tiêu chí để phân biệt một nhóm dân tộc thiểu số với một nhóm ngoại tộc thiểu số.
Ngoại tộc thiểu số và dân tộc thiểu số ở Ba Lan chiếm một vài phần trăm dân số của đất nước.
Đạo luật
Theo điều 2 đoạn 2 của Đạo luật Ngoại tộc thiểu số và dân tộc thiểu số ở Ba Lan, những nhóm được coi là Ngoại tộc thiểu số khi bao gồm trong các nhóm thiểu số sau: Bêlarut, Séc, Litva, Đức, Armenia, Nga, Slovak, Ukraina và Do Thái. Theo điều 2 đoạn 4 của Đạo luật, các nhóm thiểu số được công nhận là dân tộc thiểu số khi bao gồm trong các nhóm sau: Karaim, Lemko, Roma và Tatar. Ngoài ra, điều 19 đoạn 2 định nghĩa ngôn ngữ Kashub là ngôn ngữ khu vực.
Kết quả của cuộc tổng điều tra nên được phân biệt với các quy định trong luật. Lý do là trong bảng điều tra dân số, những người phỏng vấn được đánh dấu câu trả lời cho câu hỏi về quốc tịch theo ý riêng của họ. Liên quan đến vấn đề trên, những người được hỏi có nguy cơ chỉ ra các quốc tịch hư cấu cũng như tự nhận mình có quốc tịch hoặc nhóm dân tộc không đáp ứng các tiêu chí nhóm thiểu số theo nghĩa của Đạo luật. Vì vậy, các nhóm thiểu số không được liệt kê trong Đạo luật có thể xuất hiện trong danh sách kết quả của cuộc điều tra dân số. Ngoài ra, điều tra dân số thực sự còn tính đến cả nơi thường trú thực tế ở Ba Lan, bất kể quốc tịch là người quốc gia nào. Tuy nhiên, nhóm thiểu số theo nghĩa của Đạo luật, chỉ bao gồm những người có quốc tịch Ba Lan.
Tổng điều tra các nhóm dân tộc riêng lẻ
nhỏ|350x350px| Các thành phố ở Ba Lan nơi có ít nhất 10% cư dân tuyên bố không có quốc tịch Ba Lan (so sánh dữ liệu từ cuộc điều tra dân số năm 2011 và từ năm 2002)
Quốc tịch, trong các cuộc điều tra ở Ba Lan, đã được kiểm tra năm lần: năm 1921, 1931 (quốc tịch được xác định gián tiếp trên cơ sở tôn giáo và tiếng mẹ đẻ), năm 1946 (điều tra dân số), 2002 và 2011.
Tổng điều tra dân số năm 2002
Trong Tổng điều tra quốc gia năm 2002, hơn 96% số người được hỏi tuyên bố họ có quốc tịch Ba Lan, 1,23% (471,5 nghìn người) - thuộc một quốc tịch khác, trong khi 2,03% dân số (774,9 nghìn người) không nêu rõ quốc tịch của họ. Tuy nhiên, đã có những cáo buộc về việc nhấn mạnh số người tuyên bố quốc tịch khác với Ba Lan . Việc kiểm kê năm 2002 được thực hiện trong khi không có căn cứ hay luật định nào để xác định người Ngoại tộc thiểu số hay Dân tộc thiểu số.
Bảng dưới đây gồm hơn 1000 người thuộc nhóm thiểu số (theo dữ liệu điều tra dân số từ năm 2002 ), bao gồm cả dữ liệu chi tiết cho mục đích khảo sát của Wikipedia. Dữ liệu đề cập đến tất cả những người sống ở Ba Lan tính đến năm 2002. Các nhóm thiểu số được công nhận ở Ba Lan (được liệt kê trong Đạo luật) đã được in đậm.
Tổng điều tra dân số năm 2011
Trong Tổng điều tra quốc gia năm 2011, 97,09% số người được hỏi đã tuyên bố có quốc tịch Ba Lan (bao gồm cả những người tuyên bố quốc tịch khác). 871,5 nghìn người (2,26%) được tuyên bố có hai quốc tịch - Ba Lan và một quốc tịch không phải Ba Lan, bao gồm 788.000 người (2,05%) có Ba Lan là quốc tịch đầu tiên, và 83 nghìn người (0,22%) có Ba Lan là quốc tịch thứ hai. 596 nghìn người (1,55%) tuyên bố không có quốc tịch Ba Lan, trong đó 46 nghìn người (0,12%) được tuyên bố có hai quốc tịch (không quốc tịch nào là Ba Lan ).
Bảng dưới đây liệt kê các nhóm thiểu số theo dữ liệu điều tra dân số từ năm 2011 (cả những người khai báo quốc tịch không phải là người Ba Lan, cũng như những người tuyên bố có một quốc tịch Ba Lan và một quốc tịch không phải Ba Lan) . Dữ liệu đề cập đến tất cả những cư dân sống ở Ba Lan, chứ không chỉ riêng những người có quốc tịch Ba Lan, và không bao gồm người nước ngoài sống ở Ba Lan. Các nhóm thiểu số được công nhận ở Ba Lan (được liệt kê trong Đạo luật) đã được in đậm.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Dân tộc thiểu số** nghĩa là một nhóm không đồng nhất mình với một quốc gia khác (ngày nay) trong khi đang sống trong lãnh thổ Ba Lan. **Ngoại tộc thiểu số ở Ba Lan**
## Alal Alal là tên gọi theo tiếng Ba Na, dùng để chỉ nhạc cụ hơi có lưỡi gà rung tự do, khá phổ biến trong cộng đồng người Ba Na và một số dân
Ngôn ngữ chính được nói ở **Ba Lan** là tiếng Ba Lan. Cộng đồng người khiếm khuyết sử dụng Ngôn ngữ ký hiệu Ba Lan thuộc Ngôn ngữ ký hiệu của Đức. Theo **Đạo luật
Tất cả các hoạt động trong lịch sử của Ba Lan nhằm mục đích giáo dục và nuôi dạy. Các cấu trúc cơ bản mà các hoạt động giáo dục được thực hiện trong nhà
Vụ **thảm sát người Ba Lan ở Volhynia và Đông Galicia** (, nghĩa: _giết chóc Volhynia_; , _bi kịch Volyn_) là một phần của hoạt động thanh lọc sắc tộc thực hiện tại vùng đất
thumb|Các nhóm sắc tộc theo ngôn ngữ Thái Lan năm 1974 thumb|Biểu đồ thể hiện dân số của Thái Lan. Vương quốc Thái Lan có khoảng 70 dân tộc, trong đó có 24 nhóm người
**Các ngày lễ ở Ba Lan** được quy định bởi Đạo luật Ngày không làm việc ngày 18 tháng 1 năm 1951 (Ustawa z dnia 18 stycznia 1951 o dniach wolnych od pracy; Tạp chí
Tính cách của phụ nữ Ba Lan được định hình bởi lịch sử, văn hóa và chính trị của họ. Ba Lan là quốc gia có một lịch sử lâu dài về hoạt động nữ
**Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam** (phía Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa và các đồng minh thường gọi là **Việt Cộng**) là một tổ chức liên minh chính trị hoạt
**Người Việt tại Ba Lan** tạo thành một trong những nhóm dân tộc thiểu số lớn ở Ba Lan. Cộng đồng người Việt ở Ba Lan là cộng đồng người Việt đông thứ ba ở
Sau khi Cuộc tấn công Ba Lan được phát động bởi cả Liên Xô và Đức Quốc Xã, các chiến dịch khủng bố và đàn áp người Ba Lan của Liên Xô đã bắt đầu
thumb|[[Nhà thờ Thánh Florian|Thánh đường Công giáo Rôma Thánh Florian ở Warszawa. Đại đa số những Người Ba Lan là tín đồ Kitô giáo.]] Ba Lan là một trong những quốc gia sùng đạo ở
**Phân biệt dân tộc ở Việt Nam** là thái độ phân biệt của người Kinh chiếm đa số đối với các dân tộc thiểu số như người Thượng, người Chăm, người Khmer Krom và người
**Lịch sử của Ba Lan từ năm 1945 đến năm 1989** bao gồm thời kỳ thống trị của Liên Xô và sự quản lý nước này dưới chế độ cộng sản được áp đặt sau
**Công viên Dân tộc học Żywiec ở Ślemień** (tiếng Ba Lan: _Żywiecki Park Etnograficzny w Ślemieniu_) là một bảo tàng ngoài trời tọa lạc tại số 2a phố Łączna, làng Ślemień, xã Ślemień, huyện Żywiecki,
**Bảo tàng - Công viên Dân tộc học Orawa ở Zubrzyca Górna** (tiếng Ba Lan: _Muzeum - Orawski Park Etnograficzny w Zubrzycy Górnej_) là một bảo tàng ngoài trời tọa lạc ở làng Zubrzyca Górna,
**Lịch sử Ba Lan giữa hai cuộc Thế chiến** bao gồm giai đoạn từ tái lập quốc gia độc lập Ba Lan năm 1918, tới Cuộc xâm lược Ba Lan từ phía tây bởi Đức
**Quốc gia dân tộc** (_tiếng Anh_: **Nation-state** hay **Country**) là một quốc gia tồn tại để đại diện chủ quyền cho một dân tộc. Quốc gia dân tộc không chỉ là một thực thể chính
**Đệ nhị Cộng hòa Ba Lan**, quốc hiệu là **Cộng hòa Ba Lan** ()**,** là một quốc gia ở Trung và Đông Âu, tồn tại từ ngày 7 tháng 10 năm 1918 đến ngày 6
**Chiến tranh Ba Lan – Ukraina**, diễn ra từ tháng 11 năm 1918 đến tháng 7 năm 1919, là cuộc xung đột giữa Cộng hòa Ba Lan thứ hai và các lực lượng Ukraina (cả
nhỏ|450x450px| Dân số Ba Lan, Dữ liệu của [[Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc|FAO, 1961-2014; (tính theo hàng triệu). ]] nhỏ|450x450px| Các thành phố và thị trấn lớn nhất ở Ba
**Người Ba Lan ở Đức** là cộng đồng người Ba Lan (_Polonia_) lớn thứ hai trên thế giới và lớn nhất ở châu Âu. Ước tính số lượng người Ba Lan sống ở Đức thay
Hiện nay Việt Nam có 54 dân tộc và 1 nhóm "người nước ngoài". Bản Danh mục các dân tộc Việt Nam này được Tổng cục Thống kê Việt Nam của chính phủ Việt Nam
**Người Ba Lan** (, ; nam giới gọi là _Polak_, nữ giới gọi là _Polka_) là một nhóm dân tộc gốc Tây Slav bản địa của Trung Âu chủ yếu ở Ba Lan, cũng như
**Biểu tình Nội Mông** **2020** là một loạt các cuộc biểu tình kéo dài nhiều ngày, bắt đầu nổ ra từ cuối tháng 8 năm 2020 tại Khu tự trị Nội Mông Cổ, phía bắc
**Những tội ác chống lại Ba Lan** được gây ra bởi Đức Quốc Xã và những lực lượng công tác trong cuộc tấn công Ba Lan (1939), cùng với những tiểu đoàn phụ trợ trong
**Liên Xô xâm lược Ba Lan năm 1939**, còn được gọi là **Chiến dịch giải phóng Tây Belarus và Tây Ukraina** bởi Liên Xô, là một cuộc xung đột quân sự không có lời tuyên
Nhóm **thiểu số tính dục** (_tiếng Anh_: sexual minority) là một nhóm người có bản dạng, xu hướng tính dục hay hoạt động tình dục không tương đồng với đa số mọi người trong xã
Sau cuộc xâm lược Ba Lan vào đầu Chiến tranh thế giới thứ hai, gần một phần tư toàn bộ lãnh thổ của Cộng hòa Ba Lan bị Đức Quốc xã sáp nhập và đặt
**Văn hóa Ba Lan** (()) là thành phẩm của sự phát triển địa lý và lịch sử riêng biệt của Ba Lan, gắn bó mật thiết với lịch sử hàng nghìn năm vô cùng phức
**Chủ nghĩa thực chứng tại Ba Lan** là một phong trào văn hóa xã hội nhằm xác định tư tưởng tiến bộ trong văn học và khoa học xã hội của Ba Lan khi chia
Cùng với việc lưu giữ những làn điệu dân ca, dân vũ, hát then, đàn tính, bà con các dân tộc thiểu số ở Cao Bằng còn kiên trì bảo tồn nhiều nghề truyền thống
thumb|Các vùng sắc tộc tôn giáo Iraq **Người Kurd ở Iraq** () là những người sinh ra hoặc sống ở Iraq có nguồn gốc người Kurd. Người Kurd là dân tộc thiểu số lớn nhất
**Cuộc xâm lược Ba Lan 1939** – được người Ba Lan gọi là **Chiến dịch tháng Chín** (_Kampania wrześniowa_), **Chiến tranh vệ quốc năm 1939** (_Wojna obronna 1939 roku_); người Đức gọi là **Chiến dịch
**Ủy ban Sự vụ dân tộc Quốc gia Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** (tiếng Trung: 中华人民共和国国家民族事务委员会, gọi ngắn: 国家民委), viết tắt là **Ủy ban Dân sự**, **Ủy ban Dân tộc**, **Dân ủy Quốc gia**
## Dân tộc lớn nhất ở Campuchia là người Khmer chiếm khoảng 90% tổng dân số, họ chủ yếu sinh sống ở tiểu vùng đất thấp sông Mekong và đồng bằng trung tâm. Trong lịch
**Chính quyền Dân tộc Palestine** (**PNA** hay **PA**; _Al-Sulṭa Al-Waṭaniyyah Al-Filasṭīniyyah_) là tổ chức hành chính được lập ra để cai quản các vùng của lãnh thổ Palestine gồm Bờ Tây và Dải Gaza. Chính
**Casimir III Vĩ đại** (tiếng Ba Lan: Kazimierz III Wielki; 30 tháng 4 năm 1310 – 5 tháng 11 năm 1370) làm vua Ba Lan từ năm 1333 đến năm 1370. Ông là con trai
**Trục xuất người Triều Tiên ở Liên Xô** (, ) là việc cưỡng bức di cư gần 172.000 người Triều Tiên từ Viễn Đông Nga sang Trung Á vào năm 1937 theo chỉ thị của
**Ba Lan**, quốc hiệu là **Cộng hòa Ba Lan**, là một quốc gia có chủ quyền ở Trung Âu, tiếp giáp với Đức, Slovakia, Cộng hòa Séc, Ukraina, Belarus, Litva, Nga và biển Baltic; diện
**Chiến tranh Kế vị Ba Lan** (tiếng Ba Lan: _Wojna o sukcesję polską_; tiếng Anh: _War of the Polish Succession_; ) là một cuộc xung đột lớn ở châu Âu, gây ra bởi cuộc nội
**Maria Karolina Zofia Felicja Leszczyńska của Ba Lan** (; 23 tháng 6 năm 1703 – 24 tháng 6 năm 1768), còn được gọi là **Marie Leczinska** (), là Vương hậu Pháp sau khi kết
**Âm nhạc Ba Lan** bao gồm các khía cạnh khác nhau của âm nhạc đương đại và âm nhạc dân gian có nguồn gốc từ Ba Lan. Các nghệ sĩ đến từ Ba Lan bao
**Quan hệ Ba Lan–Việt Nam** là mối quan hệ giữa Cộng hòa Ba Lan và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trong lịch sử. Hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao vào
**Giáo dục bắt buộc ở Ba Lan** bắt đầu từ sáu tuổi bằng lớp tiếp nhận bắt buộc - lớp "0" (tiếng Ba Lan _zerówka_ hay _klasa 0_, theo nghĩa đen là Năm 0). Ở
**Chủ nghĩa dân tộc** (tiếng Anh: _nationalism_) là một quan niệm và ý thức hệ chính trị cho rằng dân tộc nên đồng nhất với nhà nước. Khái niệm này hay được cho là ra
() cũng có thể gọi theo tiếng Nhật chuyển tự Latinh là **_Zainichi_** là những người Triều Tiên di cư đến Nhật Bản trước năm 1945 và trở thành công dân hoặc thường trú nhân
Trong Thế chiến I không tồn tại một quốc gia Ba Lan độc lập, với vị trí địa lý nằm giữa các cường quốc tham chiến, có nghĩa là nhiều trận chiến và tổn thất
**Giáo hội Chính thống giáo Độc lập Ba Lan** (), thường được biết đến là **Giáo hội Chính thống giáo Ba Lan**, hoặc **Giáo hội (Chính thống giáo) Ba Lan** là một trong những Giáo
Đội tuyển bóng đá quốc gia Ba Lan đã có ba lần tham dự các Giải vô địch bóng đá châu Âu, vào những năm 2008, 2012 và 2016. Giải vô địch bóng đá châu