✨Dân chủ trực tiếp

Dân chủ trực tiếp

Dân chủ trực tiếp, hay còn gọi là dân chủ thuần túy (pure democracy) là một hình thức nhà nước dân chủ trong đó các công dân của một quốc gia trực tiếp bỏ phiếu thông qua luật pháp của quốc gia đó thay vì bầu ra các đại diện để chấp thuận các luật đó. Dân chủ trực tiếp hiện đại đặc trưng bởi ba trụ cột chính là:

  • Quyền đề xướng luật lệ
  • Trưng cầu dân ý bao gồm cả trưng cầu dân ý bắt buộc cho phép nhân dân bỏ phiếu phủ quyết sự ban hành pháp luật
  • Bãi nhiệm bằng cách gửi kiến nghị hoặc trưng cầu dân ý cho phép nhân dân có quyền bãi nhiệm những người đã được bầu ra

Lịch sử

Lịch sử dân chủ La Mã cổ đại bắt đầu khoảng năm 449 TCN cũng có liên quan. Trong nền Cộng hòa La Mã cổ đại, việc làm luật của công dân _(citizen lawmaking)"— sự phát biểu và thông qua luật của công dân; cũng như quyền phủ quyết của công dân về luật do lập pháp đưa ra— bắt đầu vào khoảng năm 449 TCN và kéo dài khoảng 400 năm đến khi Julius Caesar chết năm 44 TCN. Nhiều sử gia đánh dấu sự kết thúc của nền cộng hòa đó vào thời điểm thông qua luật có tên _Lex Titia'' vào ngày 27 tháng 11 năm 43 TCN (Cary, 1967).

Tuy nhiên, từ thời dân chủ Athen, hình thức chính quyền này hiếm khi được dùng (chỉ một số chính phủ thi hành một phần chứ không như thời Athen cổ). Các nền dân chủ đầu phiếu hiện đại nhìn chung chỉ dựa trên các đại diện dân chủ được nhân dân bầu ra và thường được gọi là dân chủ đại diện.

Lập pháp công dân trong kỷ nguyên hiện đại bắt đầu ở các thành thị của Thụy Sĩ vào thế kỷ thứ 13. Năm 1847, người Thụy Sĩ thêm "đạo luật trưng cầu dân ý" vào hiến pháp của họ. Họ sớm phát hiện ra rằng chỉ có quyền phủ quyết các luật của Nghị viện thôi chưa đủ. Năm 1890, khi các điểu khoản cho việc làm luật của người dân nước Thụy Sĩ đang được tranh luận trong xã hội dân sự và nhà nước, người Thụy Sĩ đã dùng lại ý tưởng về việc đa số kép từ Quốc hội Mỹ, nơi mà các phiếu bầu ở Hạ viện đại diện cho nhân dân và phiếu bầu ở Thượng viện đại diện cho tiểu bang (Kobach, 1993). Năm 1891, họ thêm vào "Quyền đề xướng luật lệ và sửa đổi trong hiến pháp". Các cuộc tranh luận chính trị gay gắt của Thụy Sĩ từ năm 1891 đã cho thế giới một nền tảng kinh nghiệm có giá trị trong quyền đề xướng luật lệ và sửa đổi trong hiến pháp (Kobach, 1993).

Ở Thụy Sĩ, đa số đơn (single majorities) có thẩm quyền ở cấp thành thành thị và tiểu bang (canton và bán canton), nhưng ở cấp trung ương, đa số kép (double majorities) phải có trong những vấn đề có liên quan tới hiến pháp. Mục đích của đa số kép chỉ để bảo đảm cho tính hợp pháp của các luật do nhân dân lập ra. Trước hết, đa số kép là sự tán thành bởi đa số phiếu và tiếp theo là đa số ở cấp tiểu bang nơi đa số phiếu đó đồng ý với cách thức bỏ phiếu. Một luật do công dân đề xướng không thể nào được thông qua ở Thụy Sĩ ở cấp trung ương nều một nhóm đa số người dân tán thành nhưng đa số của các tiểu bang không tán thành (Kobach, 1993). Để trưng cầu dân ý hay đề xướng trong những điều khoản chung thì đa số phiếu bầu là đã đủ (Hiến pháp Thụy Sĩ, 2005).

Thụy Sĩ là một ví dụ điển hình nhất của một nền dân chủ trực tiếp, vì nó biểu thị hai trụ cột đó ở cả hai cấp địa phương lẫn trung ương. Trong suốt 120 năm qua, có hơn 240 lần quyền đề xướng luật lệ được đưa ra trưng cầu dân ý. Nhân dân chỉ chấp nhận khoảng 10% số đề xướng đó. Ngoài ra, họ thường chọn những đề xướng được chính phủ đề ra. Theo những người ủng hộ, việc giàu tính hợp pháp "(legitimacy-rich)" tiếp cận với việc làm luật của người dân đã và đang rất thành công. Kobach tuyên bố rằng Thụy Sĩ đã thành công kép cả về xã hội lẫn kinh tế mà chỉ một số ít quốc gia khác đạt được, và Mỹ không nằm trong số đó.

Một ví dụ đặc biệt khác là Mỹ, dù là một quốc gia cộng hòa liên bang nhưng không tồn tại dân chủ trực tiếp ở mức liên bang. Có hơn một nửa số tiểu bang của Mỹ (và nhiều địa phương) có các cuộc bỏ phiếu đề xướng luật lệ do người dân bảo trợ và đa số các tiểu bang có ít nhất một hay cả hai trụ cột đầu của dân chủ trực tiếp. Dân chủ trực tiếp bị những người lập bản Hiến pháp Mỹ và một vài người ký vào bản Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ phản đối mạnh mẽ. Họ nhận thấy sự nguy hiểm trong việc nhóm đa số sẽ áp đặt nguyện vọng của họ lên nhóm thiểu số. Kết quả là, họ tán thành một nền dân chủ đại nghị với hình thức một nền cộng hòa lập hiến trên nền dân chủ trực tiếp. Điển hình như James Madison trong Federalist No. 10 (Chủ trương chế độ liên bang số 10) cho rằng nền cộng hòa lập hiến trên dân chủ trực tiếp chính xác là để bảo vệ từng cá nhân khỏi các nhóm đa số áp đặt nguyện vọng của họ.

Nhiều phong trào chính trị tìm cách khôi phục một số phương pháp của dân chủ trực tiếp và một thể chế dân chủ thảo luận (dựa trên sự đồng lòng trong việc ra quyết định hơn chỉ là nguyên tắc đa số). Những phong trào như vậy chủ trương có nhiều lần bỏ phiếu và trưng cầu dân ý phổ thông hơn trong các quyết sách và ít hơn điều gọi là "chính trị gia cầm quyền". Nhìn chung, những phong trào này được cho là chủ trương dân chủ thường dân hay dân chủ nhất trí để phân biệt nó với mô hình dân chủ trực tiếp giản đơn. Phong trào chủ nghĩa vô chính phủ đã và đang bảo vệ cho hình thức dân chủ trực tiếp như một sự thay thế cho quốc gia trung ương tập quyền và chủ nghĩa tư bản. Một phong trào dân chủ khác có liên quan đến loại dân chủ này là chính trị cộng đồng, tìm kiếm sự cam kết trực tiếp giữa các đại diện dân chủ và các cộng đồng với nhau. Ngoài ra còn có những phong trào khác như Abahlali baseMjondolo - Phong trào của những cư dân sống trong lều ở Nam Phi, Zapatista Army of National Liberation - Phong trào của người dân bản xứ México, MST - Phong trào của những người không có đất ở Brasil. Trong năm 2003, những cử tri có đăng ký ở Mỹ bắt đầu bỏ phiếu thông qua Quyền đề xướng luật Quốc gia cho Dân chủ (National Initiative for Democracy) do cựu Thượng Nghị sĩ Mỹ Mike Gravel chỉ đạo, tại trang web http://Vote.org.

Internet và các công nghệ thông tin khác cũng có liên quan đến dân chủ trực tiếp được gọi là dân chủ điện tử '(e-democracy). Hay chính xác hơn, khái niệm quản trị nguồn mở áp dụng nguyên tắc của phong trào phần mềm miễn phí cho việc quản trị của con người, cho phép toàn bộ quần chúng nhân dân tham gia vào chính quyền một cách trực tiếp theo ước muốn của họ. Sự phát triển này vi phạm khái niệm truyền thống của dân chủ, bởi vì nó không cho phép mọi người có sự đại diện như nhau. Chế độ nhân tài có thể là sự bổ sung thích hợp một cách dân chủ. Ở đó, những người ban hành luật được trao quyền dựa trên thứ bậc của họ do những người khác.

Quan điểm

Ủng hộ dân chủ trực tiếp

Các ý kiến ủng hộ dân chủ trực tiếp có khuynh hướng chú trọng đến những sai lầm trong nhận thức trong một nền dân chủ khác, đó là dân chủ đại diện hay dân chủ đại nghị:

  • Không đại diện. Những người được bầu ra trong nền dân chủ đại nghị thường có khuynh hướng không đại diện theo tỉ lệ dân số trong khu vực bầu cử của họ. Họ dường như giàu có, có học thức hơn và họ cũng có tỉ lệ nam cũng như có số thành viên của nhóm sắc tộc đa số, nhóm dân tộc thiểu số, và tôn giáo cao hơn. Họ cũng có xu hướng tập trung vào một số ngành nào đó, như luật sư chẳng hạn. Các cuộc bầu cử ở các khu vực bầu cử có thể giảm, nhưng không triệt tiêu, được những khuynh hướng đó. Nền dân chủ trực tiếp vốn đã mang tính đại diện vì có phổ thông đầu phiếu, nơi mà ai cũng đi bầu được. Các nhà chỉ trích lại cho rằng dân chủ trực tiếp có thể không mang tính đại diện nếu không phải tất cả cử tri tham gia ở các cuộc bầu cử, và điều này dẫn đến kết quả là các nhóm khác nhau bị phân chia không đồng đều. Ở các cấp học cao hơn, đặc biệt là luật, dường như có nhiều lợi thế, trong khi đó lại bất lợi cho nhóm lập pháp.
  • Tham nhũng. Việc tập trung quyền lực cho chính phủ đại diện bị một số người cho rằng có khuynh hướng tạo ra tham nhũng. Ở nền dân chủ trực tiếp, khả năng bị tham nhũng được giảm thiểu.
  • Các đảng chính trị. Việc thành lập các đảng chính trị bị một số người cho là một việc bất đắc dĩ (necessary evil) của dân chủ đại nghị, nơi các thủ đoạn thỏa hiệp thường dùng để các ứng viên được trúng cử.

Trong khi đó, ở nền dân chủ trực tiếp, các đảng chính trị không thực sự có hiệu lực, bởi vì người dân không cần phải tuân thủ các quan điểm chung.

  • Chính phủ chuyển tiếp. Sự thay đổi từ một đảng chính trị cầm quyền này sang một đảng chính trị khác, hay ở phạm vi nhỏ hơn là từ một đại diện này sang một đại diện khác, có thể gây ra tình trạng đổ vỡ chính quyền và thay đổi luật pháp. Ví dụ, bà ngoại trưởng Mỹ Condoleezza Rice đã trích dẫn rằng sự chuyển tiếp từ chính quyền tổng thống Bill Clinton sang chính quyền tổng thống George W. Bush là nguyên nhân chính dẫn đến việc Mỹ không nhăn chặn được vụ khủng bố 11 tháng 9, diễn ra sau sự chuyển tiếp 8 tháng.
  • Chi phí bầu cử. Nhiều tiền của đáng lẽ dùng trong bầu cử có thể bị dùng vào việc khác. Hơn nữa, nhu cầu để mở chiến dịch huy động tiền đóng góp dường như làm tổn hại nghiêm trọng về tính trung lập của các đại diện, người chịu ơn các nhà tài trợ chính và tặng thưởng họ, thì chí ít những người đại diện này cũng cho phép những người đóng góp đó tiếp cận các viên chức chính phủ.
  • Sự bảo trợ và gia đình trị. Những người được bầu ra thường chỉ định người khác vào những vị trí cao dựa trên sự trung thành lẫn nhau của họ mà không phải năng lực của họ.
  • Thiếu minh bạch. những người ủng hộ cho rằng trong dân chủ trực tiếp, nơi người dân bầu trực tiếp những vấn đề liên quan đến họ, sẽ đem lại sự minh bạch về chính trị hơn dân chủ đại nghị.
  • Thiếu trách nhiệm giải trình. Một khi được trúng cử, các đại diện tự do hành động tùy ý. Những lời hứa trước các cuộc bầu cử thường bị bỏ qua, và họ thường làm trái với ước muốn của cử tri của họ. Mặc dầu theo lý thuyết thì có thể có một nền dân chủ đại diện mà ở đó các đại diện có thể bị bãi nhiệm bất kỳ lúc nào, nhưng trên thực tế điều này ít xảy ra. Thực tế, nền dân chủ trực tiếp có quy trình bãi nhiệm tức thời.
  • Sự hững hờ của cử tri. Ý kiến tranh luận cho rằng nếu cử tri có nhiều ảnh hưởng trong quyết định của mình, thì họ sẽ tham gia tích cực hơn trong việc quyết định đó.
  • Xung đột quyền lợi.

Phản đối dân chủ trực tiếp

  • Quy mô. Dân chủ trực tiếp được áp dụng cho một cộng đồng nhỏ. Điển hình là Dân chủ Athen, vào lúc cao trào, có khoảng 30.000 cử tri đủ tiêu chuẩn (các công dân nam trưởng thành tự do). Nhưng đối với phạm vi lớn hơn thì trong lịch sử đã cho thấy nhiều khó khăn hơn . Tuy nhiên, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật như Internet, các phần mềm bảo vệ và thân thiện người dùng, các máy tính cá nhân mạnh và giá thành dịch vụ không đắt lắm đã đem lại khả năng áp dụng dân chủ trực tiếp trên phạm vi lớn.
  • Tính thực tế và hiệu quả. Việc quyết định các vấn đề quan trọng trong nhân dân bằng cách trưng cầu dân ý trực tiếp thường chậm chạp và tốn kém (đặc biệt ở các cộng đồng lớn), và có thể dẫn đến sự thờ ơ trong công chúng cũng như sự mệt mỏi của cử tri nhất là khi họ phải đối mặt với những câu hỏi cứ lặp đi lặp lại hay những câu hỏi không quan trọng với cử trị. Một số người ủng hộ dân chủ trực tiếp hiện đại thường gợi ý hình thức dân chủ điện tử (e-democracy) (như TV và diễn đàn Internet...) để giải quyết các trở ngại này.
  • Chính sách mị dân. Một phản đối chính đối với dân chủ trực tiếp là nhìn chung quần chúng thường quan tâm tới các vấn đề chính trị một cách hời hợt và vì vậy rất dễ dàng bị cuốn vào những lời lẽ thuyết phục hay mị dân.

:Một giải pháp khả dĩ là một đề xuất cần sự ủng hộ ít nhất của 50% người dân để thông qua. Những cử tri vắng mặt nên được xem là những phiếu "Không" (phản đối). Điều này có thể ngăn chặn việc thiểu số lên nắm quyền.

  • Phức tạp. Một phản đối nữa là các vấn đề chính sách thường phức tạp nên nhiều cử tri không hiểu. Ở dân chủ đại nghị, những người trúng cử thường được cho là có năng lực và kiến thức cao hơn mức trung bình.
  • Sự thờ ơ của cử tri.
  • Tư lợi.
  • Tối ưu một phần.
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Dân chủ trực tiếp**, hay còn gọi là _dân chủ thuần túy_ _(pure democracy)_ là một hình thức nhà nước dân chủ trong đó các công dân của một quốc gia _trực tiếp_ bỏ phiếu
Tổ chức nhà nước của người Athena, thế kỷ thứ 4 TCN **Dân chủ Athena** phát triển ở thành phố Athena, nước Hy Lạp cổ đại, bao gồm trung tâm bang/thành phố Athena và vùng
**Nền dân chủ có sự tham gia** () là một hình thức chính phủ mà công dân có sự tham gia trực tiếp vào chính quyền với tư cách cá nhân và trực tiếp sử
**Dân chủ** là một phương pháp ra quyết định tập thể trong đó mọi thành viên đều có quyền ngang nhau khi tham gia ra quyết định. Dân chủ cũng được hiểu là một hình
thumb|_Eduskunta_, quốc hội của [[Đại công quốc Phần Lan (lúc đó là một phần của Nga), có quyền bầu cử phổ thông vào năm 1906. Một số tiểu bang và vùng lãnh thổ có thể
Các quốc gia được tô màu **lam** được cho là có nền "[[dân chủ đại diện" theo khảo sát của Freedom House năm 2008 [http://freedomhouse.org/template.cfm?page=363&year=2008 Freedom in the World] ]] **Dân chủ đại
**Trưng cầu dân ý** hay **bỏ phiếu toàn dân** là một cuộc bỏ phiếu trực tiếp, trong đó toàn bộ các cử tri được yêu cầu chấp nhận hay phủ quyết một đề xuất đặc
**Trưng cầu dân ý tài chính** (, còn được gọi là **trưng cầu dân ý ngân sách**, ) là một hình thức trưng cầu dân ý và là công cụ của nền dân chủ trực
**Cộng hòa dân chủ** là một chế độ chính trị hoạt động dựa trên các nguyên lý của cả hai hình thức cộng hòa và dân chủ. Cộng hòa là thể thức mà ở đó
**Bầu cử trực tiếp** là một hình thức bầu cử trong đó cử tri bỏ phiếu trực tiếp để xác định người thắng cử trong số các ứng viên. Hình thức bầu cử này được
**Dân chủ tại Việt Nam** đề cập đến tình hình dân chủ và các vấn đề liên quan đến dân chủ tại Việt Nam. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
**Đảng Dân chủ** (tiếng Anh: _Democratic Party_), cùng với Đảng Cộng hòa, là một trong hai chính đảng lớn nhất tại Hoa Kỳ. Đảng Dân chủ, truy nguyên nguồn gốc của mình đến thời Thomas
Trong khoa học chính trị, những **làn sóng dân chủ** là những lần mà dân chủ đã dâng trào từng xảy ra trong lịch sử. Mặc dù thuật ngữ này xuất hiện sớm nhất là
**Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** (), gọi ngắn là **Triều Tiên** (, MR: Chosŏn) hay **Bắc Triều Tiên** (, MR: Puk-chosŏn) là một quốc gia ở Đông Á, tạo thành nửa phía
**Hành động trực tiếp** bắt nguồn như một thuật ngữ hoạt động chính trị cho các hành vi kinh tế và chính trị, trong đó các chủ thể sử dụng sức mạnh (ví dụ như
**Cộng hòa Dân chủ Đức** (**CHDC Đức** hay **CHDCĐ**; - **DDR**), thường được gọi là **Đông Đức** dựa trên việc nước này quản lý phần lãnh thổ phía Đông của Đức (để phân biệt với
**Đầu tư trực tiếp nước ngoài** (tiếng Anh: _Foreign Direct Investment_, viết tắt là _FDI_) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách
**Chính phủ Liên hiệp Quốc dân** được thành lập ngày 3 tháng 11 năm 1946 tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I, nhằm thay thế cho Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến. Chính
nhỏ|phải|Hoa hồng đỏ, biểu trưng của phong trào dân chủ xã hội. **Dân chủ xã hội** là một hệ tư tưởng kinh tế, triết lý chính trị xã hội của chủ nghĩa xã hội ủng
Vấn đề **nhân quyền tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** rất khó để đánh giá toàn diện vì nó bị xem là vấn đề bí mật và nhạy cảm ở quốc gia
thumb|[[Fernando Lugo (Tổng thống Paraguay), Evo Morales (Tổng thống Bolivia), Lula da Silva (Tổng thống Brazil), Rafael Correa (Tổng thống Ecuador) và Hugo Chávez (Tổng thống Venezuela), tham gia với các thành viên của hội
**Campuchia Dân chủ** (, ; còn gọi là **Kampuchea**, , _Kămpŭchéa_) là tên chính thức của nhà nước Campuchia từ năm 1976 đến năm 1979, dưới sự cai trị của Pol Pot và Đảng Cộng
nhỏ|[[Tháp Chủ Thể biểu tượng của tư tưởng chính thức: _Juche_.]] **Chính trị của Triều Tiên** diễn ra trong khuôn khổ triết lý chính thức của nhà nước, _Juche_, một khái niệm được tạo ra
**Ủy ban Chỉ đạo và Tiếp cận Đảng Dân chủ Thượng viện Hoa Kỳ** (tiếng Anh: _United States Senate Democratic Steering and Outreach Committee_, viết tắt là DSOC) là một ủy ban trực thuộc chuyên
Bản **_Tuyên ngôn độc lập_** của Việt Nam được Hồ Chí Minh soạn thảo, và đọc trước công chúng tại vườn hoa Ba Đình (nay là Quảng trường Ba Đình) ngày 2 tháng 9 năm
**Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến** (có tài liệu gọi là **Chính phủ Liên hiệp Quốc gia**) là chính phủ được thành lập vào ngày 2 tháng 3 năm 1946 dựa trên kết quả của
**Nguyên tắc tập trung dân chủ** là một trong những nguyên tắc cơ bản được trình bày trong điều lệ chính thức của các đảng phái cộng sản theo chủ nghĩa Marx-Lenin. Lenin, người đầu
**Ủy ban Quốc vụ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** ( - **State Affairs Commission of the Democratic People's Republic of Korea** (**SAC**)) được định nghĩa bởi hiến pháp năm 2016 là "cơ
**Việt Nam Dân chủ Cộng hòa** (**VNDCCH**), cũng được gọi là **Bắc Việt** (), là một nhà nước ở Đông Nam Á tồn tại từ năm 1945 đến năm 1976. Là một thành viên Khối
**Đồng** là tiền tệ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lưu dụng từ năm 1946 đến ngày 2 tháng 5 năm 1978. ## Bối cảnh lịch sử Tháng 8 năm 1945, Việt Minh giành
[[Bầu cử là một phần quan trọng trong tiến trình dân chủ.]] **Dân chủ hóa** là một từ trong khoa học chính trị và xã hội học để chỉ những thay đổi về mọi mặt
**Truyền thông về Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** bị cản trở do tình trạng thiếu các thông tin đáng tin cậy về quốc gia này. Có một vài lý do cho sự
**Hội đồng Bộ trưởng Cộng hòa Dân chủ Đức** () hay còn được gọi **Hội đồng Bộ trưởng Đông Đức**, là cơ quan nội các và hành pháp của Cộng hòa Dân chủ Đức từ
**Hiến pháp Xã hội Chủ nghĩa Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** () là hiến pháp của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, hay còn gọi là Triều Tiên hoặc Bắc
**Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng** - còn được gọi là **Đảng Dân Xã** hay **Dân Xã Đảng Hòa Hảo**, là một đảng chính trị hoạt động ở miền Nam Việt Nam giai đoạn
**Dân chủ Tiến bộ Đảng** (, tiếng Anh: Democratic Progressive Party) thường được gọi tắt là **Dân Tiến Đảng** (DPP; 民進黨) là một chính đảng tại Đài Loan, và là đảng chiếm ưu thế trong
nhỏ| Lò phản ứng thử nghiệm 5 [[Watt|Mwe được chế tạo tại Yongbyon trong giai đoạn 1980-1985. ]] Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (còn gọi là Triều Tiên hoặc Bắc Triều Tiên)
**Đại dân quốc Nhân dân Xã hội chủ nghĩa Ả Rập Libya** (Tiếng Ả Rập: ‏الجماهيرية العربية الليبية الشعبية الإشتراكية العظمى Al-Jamāhīriyyah al-ʿArabiyyah al-Lībiyyah aš-Šaʿbiyyah al-Ištirākiyyah al-ʿUẓmā) là một cựu quốc gia tại Bắc Phi
**Hội đồng Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Đức** () là cơ quan tập thể lãnh đạo nhà nước của Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức) từ năm 1960 đến năm 1990. ## Bối
**Các lực lượng Dân chủ Syria** (, , ) là một liên minh đa sắc tộc và đa tôn giáo của người Kurd chủ yếu, cũng như các lực lượng dân quân Ả Rập và
**Các phong trào dân chủ tại Trung Quốc** là một loạt các phong trào chính trị được tổ chức lỏng lẻo, trong và ngoài Trung Quốc, chống lại sự hệ thống đơn đảng của Đảng
**Phân cấp hành chính của Cộng hòa Dân chủ Đức** bao gồm hai hình thức khác nhau. Chế độ Cộng hòa ban đầu truy trì cách phân cấp truyền thống trước đó của nước Đức
**Liên minh chính phủ Campuchia Dân chủ** (Tiếng Khmer: រដ្ឋាភិបាល ចំរុះ កម្ពុជាប្រជាធិបតេយ្យ), năm 1990 đổi tên thành **Chính phủ Quốc gia Campuchia** (Tiếng Khmer: រដ្ឋាភិបាល ជាតិ នៃ កម្ពុជា), là một liên minh chính phủ lưu
**Ủy ban Chính sách và Truyền thông Đảng Dân chủ Thượng viện Hoa Kỳ** (tiếng Anh: _United States Senate Democratic Policy and Communication Committee_) là ủy ban trực thuộc chịu trách nhiệm kiến nghị các
**Chính phủ Việt Nam giai đoạn 1964-1971**, còn được gọi là **Chính phủ Quốc hội khóa III**. Chính phủ khóa mới được phê chuẩn bởi cuộc bầu cử Quốc hội khóa III và được thông
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng hòa Dân chủ Congo** () là đội tuyển đại diện cho Cộng hòa Dân chủ Congo tại các giải đấu bóng đá nam quốc tế. Đội được quản
**Đảng Dân chủ Tự do** (**Lib Dems,** Liberal Democrats) là một đảng chính trị tự do ở Vương quốc Anh. Đảng này có 11 thành viên của Quốc hội tại Hạ viện, 89 thành viên
Cộng hòa Dân chủ Congo hiện tại có 25 tỉnh và thủ đô Kinshasa tương đương với một tỉnh về mặt hành chính. ## Lịch sử Khi Bỉ sáp nhập Congo vào năm 1908 thì
nhỏ|phải|Triết gia [[Friedrich Engels|F. Engels với các tác phẩm của mình đã đặt nền tảng cho Lý luận của Chủ nghĩa Marx – Lenin về nhà nước.]] **Học thuyết về Nhà nước của Chủ nghĩa
**Chủ nghĩa vô trị** hay **chủ nghĩa vô chính phủ** là một trường phái triết học và phong trào chính trị chủ trương hoài nghi bất cứ sự hợp thức hóa nào về chính quyền,