✨Cộng hòa Ả Rập Thống nhất

Cộng hòa Ả Rập Thống nhất

Cộng hòa Ả Rập Thống nhất ( __; dịch tiếng Anh: United Arab Republic) là liên minh chính trị tồn tại trong thời gian ngắn giữa Cộng hòa Ai Cập (1953-1958) và Cộng hòa Syria (1930–1958). Liên minh được thành lập vào năm 1958 và tan rã vào năm 1961 khi Syria rút khỏi liên minh. Tuy nhiên, Ai Cập vẫn tiếp tục mang quốc hiệu là "Cộng hòa Ả Rập Thống nhất" cho đến năm 1971. Tổng thống của Cộng hòa Ả Rập Thống nhất là Gamal Abdel Nasser. Trong giai đoạn 1958-1960, Cộng hòa Ả Rập Thống nhất cùng Vương quốc Mutawakkilite Yemen là các chủ thể cấu thành Hợp chúng quốc Ả Rập.

Nguồn gốc

Từ năm 1957, Syria đứng bên bờ vực bị lực lượng cộng sản soán ngôi quyền lực. Nước này khi đó có đảng cộng sản được tổ chức tốt, trong khi tham mưu trưởng quân đội là Afif al-Bizri lại là một nhân vật có cảm tình với chủ nghĩa cộng sản. Tổng thống Gamal Abdel Nasser của Ai Cập cho phái đoàn Syria - bao gồm cả Tổng thống Shukri al-Quwatli và Thủ tướng Khaled al-Azem - rằng họ cần phải loại trừ những người cộng sản khỏi chính phủ; tuy nhiên, phái đoàn bác lại và cảnh báo tổng thống Ai Cập rằng chỉ khi nào Syria liên minh hoàn toàn với Ai Cập thì mới chấm dứt được "mối họa cộng sản". Ngày 1 tháng 2 năm 1958, Cộng hòa Ả Rập Thống nhất ra đời như một bước đi đầu tiên trong việc thành lập một nhà nước liên Ả Rập. Thời đó chủ nghĩa Liên Ả Rập rất mạnh ở Syria, và Nasser là một hình tượng anh hùng phổ biến khắp thế giới Ả Rập từ sau chiến trang Suez năm 1956. Vì thế tại Syria có sự ủng hộ đáng kể đối với việc lập liên minh với Ai Cập do Nasser nắm quyền. Các điều khoản ngoại giao được ký kết giữa những quan chức lãnh đạo hai nước, mặc dù Azem chỉ miễn cưỡng thi hành. Nasser trở thành tổng thống của cộng hòa mới. Không lâu sau đó, ông tiến hành trừng trị thẳng tay cộng sản Syria và những kẻ chống đối liên minh giữa hai nước, trong đó bao gồm cả hành động cách chức Bizri và Azem.

thumb|left|Nasser đang ký hiệp ước thống nhất với Tổng thống Syria [[Shukri al-Quwatli để thành lập Cộng hòa Ả Rập Thống nhất (tháng 2 năm 1958).]] Những điều khoản cuối của Nasser mang đầy tính dứt khoát và không khoan nhượng: "một cuộc trưng cầu dân ý, sự giải tán các đảng phái và sự rút lui của quân đội khỏi nền chính trị". Trong khi điều đầu tiên được đa số thành phần ưu tú của Syria cho là hợp lý thì hai điều kiện sau lại cực kỳ gây quan ngại. Họ tin rằng nó có thể phá hủy đời sống chính trị tại Syria.

Lịch sử thời kỳ đầu

Những thành phần ưu tú trong xã hội Syria xem sự kiện đất nước sáp nhập với Ai Cập giống như một sự lựa chọn đỡ tệ hại hơn trong hai điều cùng tệ hại; họ tin các điều khoản do Nasser đặt ra là không công bằng, tuy nhiên họ không có sự lựa chọn nào khác do chính phủ đang phải gánh chịu sức ép khổng lồ. Dù vậy, mặc cho các quan ngại này, họ vẫn tin rằng Nasser sẽ dùng đảng Ba'ath làm phương tiện chính để kiểm soát Syria. Không may cho đảng này là Nasser chưa bao giờ có ý định chia sẻ quyền lực một cách công bằng. Ông lập ra hiến pháp lâm thời công bố 600 thành viên Quốc hội: gồm 400 thành viên từ Ai Cập và chỉ 200 thành viên từ Syria, đồng thời giải tán tất cả các đảng chính trị, bao gồm cả đảng Ba'ath. Nasser chỉ định bốn phó tổng thống, gồm Boghdadi và Abdel Hakim Amer cho Ai Cập và Sabri al-Assali và Akram El-Hourani cho Syria. Hiến pháp 1958 được thông qua.

Mặc dù Nasser cho phép các cựu đảng viên Ba'ath được giữ các vị trí chính trị quan trọng nhưng những người này không bao giờ vươn lên các vị trí cao như người Ai Cập. Suốt hai mùa đông xuân hai năm 1959-1960, Nasser từ loại trừ người Syria khỏi các vị trí quan trọng có tầm ảnh hưởng, đơn cử ví dụ 7/13 vị trí trong Bộ Công nghiệp Syria thời đó là do người Ai Cập nắm giữ.

Tại Syria, ngày càng có nhiều sự chống đối liên minh với Ai Cập. Các quan chức quân đội Syria căm giận việc phải làm thuộc cấp của các quan chức người Ai Cập. Các bộ lạc người Bedouin ở Syria còn nhận tiền từ Ả Rập Xê Út với cam kết không trung thành với Nasser. Thêm vào đó, công cuộc cải cách ruộng đất kiểu Ai Cập gây oán hận trong lòng dân Syria do đã làm tổn hại nền nông nghiệp của họ. Lực lượng cộng sản bắt đầu thu hút thêm tầm ảnh hưởng, trong khi giới trí thức đảng Ba'ath từng ủng hộ liên minh Ai Cập-Syria thì nay phản đối hệ thống chính trị độc đảng. Nasser không tài nào đối phó được hết các vấn đề bởi Syria vẫn là mới mẻ đối với ông, và thay vì chỉ định người Syria lãnh đạo Syria thì ông lại giao trách nhiệm này cho Amer.

Tại Ai Cập, tình hình có khả quan hơn. Tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc dân đạt mức 4,5%; công nghiệp tăng trưởng mạnh. Năm 1960, tổng thống quốc hữu hóa báo chí Ai Cập và biến chúng thành cái loa truyên truyền của riêng ông.

Quan hệ ngoại giao

Cộng hòa Ả Rập Thống nhất được xem là nguy cơ to lớn đối với Jordan. Syria được cho là nơi dung dưỡng những người Jordan đang bày mưu chống lại Vua Hussein. Trong khi đó, Ai Cập lại đang là một quốc gia thù địch với sự can dự của phương Tây vào khu vực. Cách mà Hussein dùng để đáp trả là đề xuất với Faisal II của Iraq cùng thành lập một liên minh Jordan-Iraq để làm đối trọng với Cộng hòa Ả Rập Thống nhất. Nội dung của thỏa thuận này là thành lập một bộ chỉ huy quân sự chung giữa hai nước, có ngân sách quân sự chung, trong đó 80% sẽ do Iraq đóng góp còn 20% là do Jordan đóng góp. Ngoài ra, quân lính hai quốc gia cũng sẽ được trao đổi.

Tại nước láng giềng Liban, Tổng thống Camille Chamoun - đối thủ của Nasser - tỏ ra lo lắng trước sự thành lập Cộng hòa Ả Rập Thống nhất. Các phe phái ủng hộ Nasser tại Liban (chủ yếu gồm dân Hồi giáo và Druze) bắt đầu đụng độ với những tín đồ Công giáo Maronite nhìn chung ủng hộ Chamoun, gây ra cuộc nội chiến Liban lần thứ nhất vào tháng 5 năm 1958. Mặc dù Nasser không thèm muốn gì Liban khi xem đó là một trường hợp đặc biệt nhưng ông cảm thấy cần phải hỗ trợ những người ủng hộ ông bằng cách cung cấp tiền, vũ khí hạng nhẹ và huấn luyện sĩ quan cho quân của Abdel Hamid Sarraj. Ngày 14 tháng 7 năm 1958, các quan chức quân đội Iraq tiến hành đảo chính lật đổ vương triều Iraq mà mới vừa trước đó đã thành lập Liên bang Ả Rập với Jordan. Nasser tuyên bố công nhận chính phủ mới này, đồng thời phát biểu rằng "mọi cuộc tấn công nhằm vào Iraq cũng bị xem như hành động tấn công Cộng hòa Ả Rập Thống nhất". Ngay hôm sau, thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đổ bộ lên Liban trong khi lực lượng đặc nhiệm Anh đổ bộ lên Jordan nhằm ngăn các quốc gia này rơi vào tay các lực lượng ủng hộ Nasser. Đối với Nasser, Cách mạng 14 tháng 7 đã mở đường tiến tới chủ nghĩa dân tộc Ả Rập. Dẫu cho phần đông các thành viên trong Hội đồng Chỉ huy Cách mạng Iraq muốn sáp nhập Iraq với Cộng hòa Ả Rập Thống nhất nhưng tân Tổng thống Abdel Karim Qasim lại phản đối điều này. Tác giả Said K. Aburish cho rằng trong số các lý do của việc này, có nguyên nhân do Nasser đã từ chối hợp tác cũng như khuyến khích với lực lượng đảo chính một năm trước, vả lại Qasim xem Nasser là mối đe dọa cho quyền lực tuyệt đối của ông tại Iraq.

Tháng 7 năm 1958, Chính phủ Hoa Kỳ thuyết phục Chamoun không ra tranh cử nhiệm kỳ hai, mở đường cho Fuad Chehab trở thành tổng thống mới của Liban. Khi Nasser và Chehab gặp nhau tại biên giới Liban-Syria, Nasser giải thích rằng ông không bao giờ muốn thống nhất với Liban, nhưng chỉ khi Liban không biến thành căn cứ chống Cộng hòa Ả Rập Thống nhất. Kết quả mà cuộc gặp này mang lại là sự chấm dứt cuộc khủng hoảng Liban, trong đó Nasser ngừng hỗ trợ những người ủng hộ ông và Hoa Kỳ đặt ra hạn chót cho việc rút quân khỏi khu vực.

Ban đầu, Iraq chính là quốc gia dành nhiều ủng hộ nhất cho Cộng hòa Ả Rập Thống nhất. Nước này từng tìm cách gia nhập liên minh trong giai đoạn 1960-1961 và sau đó sẽ là tái thống nhất với liên minh sau năm 1963 với việc đề xuất tái thành lập Cộng hòa Ả Rập Thống nhất gồm ba nước Ai Cập, Iraq và Syria. Một lá cờ mới cũng ra đời với ba ngôi sao tượng trưng cho ba nước hợp thành liên minh. Tuy nhiên, liên minh này đã không thành hình. Dù vậy, Iraq vẫn tiếp tục dùng lá cờ ba ngôi sao và về sau biến nó thành quốc kỳ của đất nước mình.

Quốc kỳ

Quốc kỳ Cộng hòa Ả Rập Thống nhất dựa trên Cờ giải phóng Ai Cập có từ Cách mạng Ai Cập 1952 nhưng có hai ngôi sao để tượng trưng cho hai phần của Cộng hòa. Hiện đây vẫn là quốc kỳ Syria. Năm 1963, Iraq thông qua quốc kỳ có hình thức tương tự với ba ngôi sao nhằm thể hiện mong muốn của Iraq là gia nhập Cộng hòa Ả Rập Thống nhất.

Quốc hữu hóa

thumb|right|Nasser vẫy chào đám đông ở [[Damas vào năm 1960.]] Tháng 6 năm 1960, Nasser cố gắng mở ra cuộc cải cách kinh tế nhằm đưa kinh tế Syria đi đúng hướng với khu vực nhà nước chiếm chủ đạo ở Ai Cập. Không may, những thay đổi này không giúp được gì nhiều cho cả hai nền kinh tế. Thay vì đẩy mạnh khu vực tư nhân phát triển thì Nasser lại lao vào một làn sóng quốc hữu hóa chưa từng có tiền lệ ở cả Syria và Ai Cập. Việc này bắt đầu vào tháng 7 năm 1961 mà không thông qua tham vấn ý kiến của các quan chức kinh tế đứng đầu ở Syria. Nguyên ngành buôn bán vải bông cũng như tất cả doanh nghiệp xuất nhập khẩu đều rơi vào tay chính phủ. Ngày 23 tháng 7 năm 1961, Nasser thông báo quốc hữu hóa ngân hàng, công ty bảo hiểm và mọi ngành công nghiệp nặng. Ông cũng mở mang các nguyên tắc công bằng xã hội của mình. Diện tích đất đai tối đa mà một người được nắm bị giảm từ 200 xuống còn 100 feddan. Lãi suất đối với nông dân giảm mạnh đến nỗi gần như là 0 ở một số trường hợp. Tất cả các thu nhập trên 10.000 bảng đều phải chịu thuế 90%. Người lao động được phép cử đại diện trong các ban quản trị. Họ cũng có quyền hưởng 25% lợi nhuận của doanh nghiệp. Số giờ lao động bình quân mỗi ngày giảm từ tám giờ xuống thành bảy giờ trong khi lương vẫn giữ nguyên.

Sụp đổ

Mặc dù kinh tế gặp nhiều khó khăn nhưng nguyên do thực sự dẫn đến sự cáo chung của Cộng hòa Ả Rập Thống nhất là do Nasser không có khả năng tìm ra mô hình hệ thống chính trị thích hợp cho chế độ mới. Nasser miễn cưỡng trong việc chia sẻ quyền lực chính trị. Mặc dù Amer cho phép một số sự tự do hóa về kinh tế nhằm xoa dịu giới doanh nhân Syria nhưng trò gian lận của ông trong những cuộc bầu cử Liên minh Quốc gia (đảng độc quyền, thay thế cho Ba'ath với sự trợ giúp của Đại tá Abdul Hamid Sarraj - một sĩ quan Syria có cảm tình với Nasser - đã chọc điên các vị lãnh đạo Ba'ath. Ba'ath chỉ thắng 5% tổng số ghế tại các ủy ban cấp cao, trong khi các đảng bảo thủ truyền thống lại giành đa số. Sarraj được chỉ định làm người đứng đấu Liên minh Quốc gia ở Syria, và đến mùa xuân năm 1960 thì lên thay Amer để giữ chức trong Hội đồng Hành pháp Syria. Thời Sarraj, Syria bị cai trị bởi lực lượng an ninh tàn bạo có nhiệm vụ đàn áp mọi sự chống đối chế độ.

Sự kiểm soát to lớn đang gia tăng trong khu vực công được song hành cùng việc thúc đẩy tập quyền hóa. Nasser bãi bỏ chính quyền địa phương để thay bằng một chính quyền trung ương. Chính quyền này điều hành từ Damas từ tháng 2 đến tháng 5 và điều hành từ Cairo trong những tháng còn lại của năm. Sarraj được thuyên chuyển đến Cairo, và tại đây ông này nhận ra rằng mình chỉ còn nắm rất ít thực quyền. Ngày 15 tháng 9 năm 1961, Sarraj trở về Syria và từ chức vào ngày 26 tháng 9 cùng năm. Do không còn bất kỳ đồng minh thân cận nào để giám sát Syria nên Nasser không thấy được tình trạng náo động ngày càng gia tăng trong quân đội. Ngày 28 tháng 9, một nhóm sĩ quan tiến hành đảo chính và tuyên bố Syria độc lập khỏi Cộng hòa Ả Rập Thống nhất. Mặc dù những người cầm đầu cuộc đảo chính tỏ ra sẵn sàng thương lượng tái lập liên minh với các điều kiện mà theo họ là đặt Syria ngang bằng với Ai Cập, nhưng Nasser từ chối thỏa hiệp. Ban đầu ông định gửi quân tới lật độ chế độ mới nhưng đã bỏ ý này từ sau khi người ta báo cho ông rằng đồng minh Syria cuối cùng của ông đã bị đánh bại. Trong những bài phát biểu sau vụ đảo chính, Nasser tuyên bố ông sẽ không bao giờ từ bỏ mục đích thông nhất toàn bộ Ả Rập, mặc dù từ đó về sau ông không còn đạt được thắng lợi hữu hình nào trên con đường thực hiện mục đích này nữa.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Cộng hòa Ả Rập Thống nhất** ( __; dịch tiếng Anh: _United Arab Republic_) là liên minh chính trị tồn tại trong thời gian ngắn giữa Cộng hòa Ai Cập (1953-1958) và Cộng hòa Syria
**Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất** () hay gọi tắt là **CTVQ Ả Rập Thống nhất** hay **UAE** (theo tên tiếng Anh là _United Arab Emirates_) là quốc gia Tây Á nằm về
**Cộng hòa Ả Rập Yemen**, (tiếng Ả Rập: الجمهوريّة العربية اليمنية [_al-Jamhūrīyah al-`Arabīyah al-Yamanīyah_]) còn được biết đến với cái tên **Bắc Yemen** hay **Yemen Sana'a**, là một quốc gia tồn tại từ năm 1962
Israel và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất đã thông báo vào tháng 8 năm 2020 rằng họ đang thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ trong một thỏa thuận do Hoa
Vào tối ngày 8 tháng 7 năm 2007 (theo giờ Việt Nam), một trận đấu bóng đá nằm trong khuôn khổ bảng B của Cúp bóng đá châu Á 2007 (AFC Asian Cup 2007) giữa
**Cộng hòa Ả Rập Sahrawi Dân chủ**, cũng được gọi là **Cộng hòa Sahrawi** và **Tây Sahara**, là một quốc gia được công nhận hạn chế ở phía tây Maghreb. Quốc gia này tuyên bố
thế=Các quốc gia đặt quan hệ ngoại giao với Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất.|nhỏ|361x361px|Các quốc gia đặt quan hệ ngoại giao với [[Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất.]] Quan hệ
**Quan hệ Các Tiểu Vương quốc Ả rập Thống nhất – Việt Nam** là quan hệ ngoại giao song phương giữa Các Tiểu Vương quốc Ả rập Thống nhất và Cộng hòa xã hội chủ
**Hợp chúng quốc Ả Rập** (, _ad-Duwal al-ʿArabiyya al-Muttaḥida_; dịch tiếng Anh: _United Arab States_) là bang liên tồn tại trong giai đoạn 1958-1961 giữa Cộng hòa Ả Rập Thống nhất (gồm Ai Cập và
**Kinh tế Các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất** là nền kinh tế công nghiệp phát triển. Nước này là một trong những nước phát triển nhất trên thế giới, dựa trên các số
nhỏ|Những tòa nhà chọc trời trên đường Sheikh Zayed vào tháng 11 năm 2007 nhỏ|Những tòa nhà chọc trời trên đường Sheikh Zayed vào tháng 5 năm 2006 **E 11** () là đường cao tốc
**Quan hệ Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất – Jordan** là mối quan hệ giữa Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và Jordan. Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất
**Cộng hòa Syria** ( _ _; ) được thành lập vào năm 1930 như một phần của Xứ ủy trị Syria và Liban thuộc Pháp, là sự tiếp nối từ quốc gia Syria. Sau Hiệp
**Văn hoá Ả Rập** được xem là văn hóa của các quốc gia có ngôn ngữ chính thức là tiếng Ả Rập (mặc dù ở một vài nước thì nó là ngôn ngữ thiểu số),
**Trận đấu Cúp bóng đá châu Á giữa hai đội tuyển bóng đá quốc gia Qatar và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất** đã diễn ra vào ngày 29 tháng 1 năm 2019,
thumb|Vị trí của Israel (xanh lam) và UAE (đỏ) ở Trung Đông **Hiệp định hòa bình giữa Israel và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất** hay **Hiệp ước Abraham** là thỏa thuận giữa
**Liên đoàn Ả Rập** ( **'), tên chính thức là **Liên đoàn các Quốc gia Ả Rập** ( **'), là một tổ chức khu vực của các quốc gia Ả Rập nằm tại và xung
**Thống nhất Yemen** diễn ra vào ngày 22 tháng 5 năm 1990, khi Nam Yemen (Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Yemen) tái thống nhất với Bắc Yemen (Cộng hòa Ả Rập Yemen) thành lập
Ả Rập Xê Út đã bắt đầu không kích nước láng giềng Yemen vào ngày 25 tháng 3 năm 2015, báo trước sự khởi đầu của **sự can thiệp quân sự ở Yemen**, có tên
**Đảng Xã hội chủ nghĩa Phục hưng Ả Rập** (tiếng Ả Rập: حزب البعث العربي الاشتراكي Ḥizb Al-Ba'th Al-'Arabī Al-Ishtirākī IPA: [ħɪzb albaʕθ alʕarabiː alʔɪʃtɪraːkiː]) hay còn gọi là **đảng Ba'ath** là một đảng chính
right|thumb|Bản đồ hoang mạc Ả Rập. Các vùng sinh thái theo mô tả của [[WWF. Đường màu vàng bao quanh vùng sinh thái gọi là "vùng đất cây bụi rất khô hạn hoang mạc Ả
**George Frederick Reinhardt** (1911–1971) là viên chức đối ngoại và nhà ngoại giao người Mỹ từ năm 1937 cho đến năm 1968. Ông được đồng nghiệp coi là một trong những nhà ngoại giao giỏi
Một cuộc trình diễn được tổ chức tại Viện Thế giới Ả Rập **Viện Thế giới Ả Rập** (tiếng Pháp: _Institut du monde arabe_) là một trung tâm về văn hóa Ả Rập và Hồi
**Ả Rập Xê Út** (, "thuộc về Nhà Saud", cũng được viết là **Ả Rập Saudi**, **Arab Saudi**, **Saudi Arabia**), tên gọi chính thức là **Vương quốc Ả Rập Xê Út** , "Vương quốc Ả
**Chiến tranh Ả Rập – Israel năm 1948**, được người Do Thái gọi là **Chiến tranh giành độc lập** và **Chiến tranh giải phóng**, còn người Palestine gọi là **al Nakba** (tiếng Ả Rập: النكبة,
**Bán đảo Ả Rập** ( __, "đảo Ả Rập") là một bán đảo nằm ở Tây Á, tọa lạc ở phía đông bắc châu Phi, trên mảng Ả Rập. Theo góc nhìn địa lý, đây
**Saud bin Abdulaziz Al Saud** ( ; 15 tháng 1 năm 1902 – 23 tháng 2 năm 1969) là quốc vương của Ả Rập Xê Út từ năm 1953 đến năm 1964. Sau một giai đoạn
**Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Yemen** (, _)_, hay còn gọi là **Nam Yemen**, **Yemen Aden** là một nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa thành lập năm 1967 duy nhất ở Tây Á.
**Cúp bóng đá châu Á 2019** () là Cúp bóng đá châu Á lần thứ 17, với chu kỳ 4 năm 1 lần, do Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) tổ chức. Giải đấu
**Người Ả Rập** ( , phát âm tiếng Ả Rập ) là một cộng đồng cư dân sống trong thế giới Ả Rập. Họ chủ yếu sống trong các quốc gia Ả Rập tại Tây
**Khalid bin Abdulaziz Al Saud** ( __; 13 tháng 2 năm 1913 – 13 tháng 6 năm 1982) là quốc vương của Ả Rập Xê Út từ năm 1975 đến năm 1982. Trong thời gian
thumb|Tổng thống Nga [[Vladimir Putin và Vua Ả Rập Xê Út Salmán bin Abdulaziz tại Điện Kremli, 2017.]] Vào ngày 8 tháng 3 năm 2020, Ả Rập Xê Út đã bắt đầu một cuộc chiến
**Vùng Đông** ( __) là vùng có diện tích lớn nhất của Ả Rập Xê Út. Thủ phủ của vùng là thành phố Dammam, đây cũng là nơi cư trú của đa số cư dân
**Trường đại học Hoa Kỳ ở Dubai** (**AUD**) (tiếng Ả Rập: **الجامعة الأمريكية في دبي**) là một trường tư nhân ở Dubai, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, được thành lập vào năm
**Cuộc không kích của Mỹ tại Syria năm 2014** là một cuộc tấn công bằng không quân của lực lượng quân đội Hoa Kỳ và một số quốc gia Ả Rập vào Nhà nước Hồi
**Đại hội Thể thao Ả Rập** (), còn được biết đến với tên gọi **Đại hội Thể thao Liên Ả Rập**, là một sự kiện thể thao đa môn cấp khu vực được tổ chức
**Đại dân quốc Nhân dân Xã hội chủ nghĩa Ả Rập Libya** (Tiếng Ả Rập: ‏الجماهيرية العربية الليبية الشعبية الإشتراكية العظمى Al-Jamāhīriyyah al-ʿArabiyyah al-Lībiyyah aš-Šaʿbiyyah al-Ištirākiyyah al-ʿUẓmā) là một cựu quốc gia tại Bắc Phi
**Nam Ả Rập** là một khu vực lịch sử bao gồm phần miền nam của bán đảo Ả Rập, chủ yếu tập trung tại Yemen hiện nay, song theo lịch sử cũng gồm các vùng
**Công viên Safari Dubai** hay **Khu dã sinh Dubai** () là khu dã sinh thân thiện với môi trường ở Dubai, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Nguồn năng lượng chính của công
**Cúp bóng đá vịnh Ả Rập** (, , _Kass Al-Khaleej Al-Arabi_), hay còn gọi là **Gulf Cup of Nations** và thường được gọi đơn giản là **Gulf Cup**, là một giải thi đấu bóng đá
**Cộng hòa** (chữ Hán: 共和) dựa trên cụm từ tiếng Latinh _res publica_ ('công vụ'), là một quốc gia mà quyền lực chính trị nằm trong tay của nhân dân thông qua những người đại
**Chung kết Cúp bóng đá châu Á 2019** là trận đấu cuối cùng của Cúp bóng đá châu Á 2019, lần thứ 17 của giải đấu bóng đá 4 năm một lần do Liên đoàn
**Lịch sử Cộng hòa Ả Rập Ai Cập** là một giai đoạn và là giai đoạn gần ngày nay nhất trong suốt lịch sử Ai Cập nói chung và Lịch sử Ai Cập hiện đại
thumb|Bản đồ Liên bang Nam Ả Rập và [[Xứ bảo hộ Nam Ả Rập.]] thumb|Một sự kiện quân sự được tổ chức ở [[Fadhli.]] **Liên bang Nam Ả Rập** ( __) là nhà nước liên
**Abdullah bin Abdulaziz Al Saud** (, __, phát âm Najd: ; 1 tháng 8 năm 1924 – 23 tháng 1 năm 2015) là quốc vương của Ả Rập Xê Út từ năm 2005 đến năm
**Xung đột Ả Rập – Israel** (, ) là những hành vi thù địch và căng thẳng chính trị đã kéo dài khoảng một thế kỷ. Nó liên quan tới sự thành lập Nhà nước
nhỏ|[[Nhà hát La Mã ở Bosra, một trong những tượng đài được bảo tồn tốt nhất của Syria trong thời La Mã. Lịch sử lâu dài và giàu có của Syria đóng một phần rất
**Phục bích** (), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Quan hệ Ả Rập Xê Út – Canada** là mối quan hệ quốc tế giữa Canada và Vương quốc Ả Rập Xê Út. Hai quốc gia có mối quan hệ kinh tế mạnh mẽ, với
**Tiếng Ả Rập vùng Lưỡng Hà**, còn được gọi là **tiếng Ả Rập Nam Lưỡng Hà** hay **tiếng Ả Rập Iraq**, là cụm phương ngữ tiếng Ả Rập có thể thông hiểu lẫn nhau có