✨Chương trình Nhập khẩu Thương mại
Chương trình Nhập khẩu Thương mại () đôi khi gọi là Chương trình Nhập khẩu Hàng hóa (; viết tắt CIP) là một thỏa thuận viện trợ kinh tế giữa Việt Nam Cộng hòa và đối tác hỗ trợ chính là Hoa Kỳ. Chương trình này kéo dài từ tháng 1 năm 1955 cho đến khi Sài Gòn thất thủ năm 1975 và sự giải thể của Việt Nam Cộng hòa sau cuộc xâm lược của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi quân đội Mỹ buộc phải rút khỏi nước này theo thỏa ước đình chiến năm 1973.
Sáng kiến này là một kế hoạch thương mại được thiết kế để bơm một lượng lớn vốn của Mỹ vào nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa nhằm giúp thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, tăng trưởng và tự cung tự cấp của miền Nam Việt Nam mà không gây ra mức lạm phát cao thường xảy ra khi bơm vốn mạnh mẽ như vậy. Lực lượng Việt Minh của Hồ Chí Minh do cộng sản thống trị đã chiến đấu vì nền độc lập của Việt Nam, trong khi người Pháp cố gắng giành lại quyền kiểm soát thuộc địa của họ bằng cách thành lập Quốc gia Việt Nam liên kết với khối Liên hiệp Pháp. Cho đến năm 1954, Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất nổ ra. Năm 1954, Pháp thua trận Điện Biên Phủ và Hội nghị Genève được tổ chức để quyết định tương lai của Liên bang Đông Dương. Việt Minh được trao quyền kiểm soát miền Bắc Việt Nam, trong khi Quốc gia Việt Nam kiểm soát lãnh thổ miền Nam Việt Nam thuộc vĩ tuyến 17. Hiệp định Genève mà Quốc gia Việt Nam không ký kết kêu gọi tổ chức tổng tuyển cử thống nhất vào năm 1956. Quốc gia Việt Nam nhận được sự hỗ trợ từ Hoa Kỳ và các nước chống cộng khác trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, vốn xem Quốc gia Việt Nam đối tác trong cuộc chiến chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản.
Chương trình Nhập khẩu Thương mại được thành lập vào tháng 1 năm 1955, và viện trợ vẫn tiếp tục khi Mỹ muốn xây dựng một nhà nước chống cộng mạnh mẽ và ổn định ở Đông Nam Á. Khi chương trình lần đầu tiên được giới thiệu, nó đã tạo ra nhiều sóng gió cho các nhà nhập khẩu thương mại tại Việt Nam. Do phần lớn hàng nhập khẩu cho đến thời điểm đó là từ Pháp, nên giới thương nhân phụ thuộc vào việc bán các sản phẩm của Pháp gặp khó khăn vì hàng hóa của họ giờ đây sẽ đắt hơn so với hàng của những người có giấy phép nhập khẩu hiện có quyền tiếp cận sản phẩm thay thế rẻ hơn của Mỹ. Các nhà cung cấp hàng hóa của Pháp đe dọa tổ chức đình công nhưng điều này chẳng bao giờ thành hiện thực. Sự ra đời của CIP đã mang lại một cấp độ mới chưa từng có về chủ nghĩa tự do kinh tế và chủ nghĩa tư bản, và lúc đầu, tầng lớp doanh nhân phải vật lộn để đáp ứng những thách thức của một thị trường phi điều tiết, dẫn đến một loạt tình trạng thiếu hụt và dư thừa đáng kể nhiều loại hàng hóa do họ thiếu kinh nghiệm trong đánh giá lực lượng thị trường và sự mất cân bằng dẫn đến trong nền kinh tế. Ban đầu có 25.000 đơn xin giấy phép nhập khẩu được nhận mà nhiều đơn lại đến từ giới đầu cơ.
Khi khởi đầu chương trình vào năm 1955, khoảng 20.000 giấy phép CIP đã được cấp, nhưng người ta xác định rằng tiến độ quá khó để quản lý nên số lượng giấy phép giảm dần và mọi người buộc phải tập hợp thành các công ty hợp doanh để tiếp cận chương trình này.
Năm 1955, Washington bơm 322,4 triệu USD vào miền Nam Việt Nam và nhà sử học George McTurnan Kahin tính toán rằng 87% trong số này đến từ CIP. Từ cuối năm 1955, khi Diệm nắm toàn quyền cai trị đất nước sau khi lật đổ Bảo Đại và tự xưng là tổng thống, cho đến năm 1961, Mỹ đã viện trợ cho Sài Gòn 1,447 tỷ USD, chủ yếu thông qua CIP. Ngoài ra, còn có khoản vay trị giá 95,6 triệu USD. Năm 1958 và 1959, CIP chiếm khoảng 80% hỗ trợ kinh tế. Đến năm 1960, Diệm đã tích lũy được 216,4 triệu USD dự trữ. Số tiền viện trợ của CIP đạt đỉnh điểm là 398 triệu USD vào năm 1966 và bắt đầu giảm dần về sau, đạt 233 triệu USD vào năm 1973.
Phương pháp
Chương trình này sử dụng trợ cấp nhập khẩu để bơm đô la Mỹ vào kho bạc Việt Nam Cộng hòa. Chính quyền đã bán số đô la này cho những doanh nhân có giấy phép nhập khẩu hàng hóa Mỹ. Các doanh nhân mua đô la Mỹ từ kho bạc Sài Gòn bằng đồng tiền Nam Việt Nam với giá bằng một nửa tỷ giá hối đoái chính thức; sau đó họ sử dụng đồng tiền Mỹ mua được với giá rẻ này để nhập khẩu hàng hóa Mỹ. Điều này có nghĩa là các nhà sản xuất Mỹ vẫn sẽ nhận được số tiền Mỹ tương đương mà họ sẽ nhận được khi bán hàng hóa của mình trên thị trường tự do, trong khi các nhà nhập khẩu Việt Nam Cộng hòa có thể nhận được số lượng hàng hóa gấp đôi với cùng một số tiền. Số tiền mà chính quyền Sài Gòn thu được từ việc bán đô la viện trợ của Hoa Kỳ sẽ được đưa vào một quỹ do Ngân hàng Quốc gia Việt Nam nắm giữ, quỹ này được sử dụng để tài trợ cho việc mở rộng và huấn luyện quân đội, cảnh sát quốc gia và cơ quan dân sự Việt Nam Cộng hòa. Vì số tiền tăng thêm không thực sự được lưu thông trong nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa và cạnh tranh để giành được cùng một nguồn cung hàng hóa và dịch vụ nên lạm phát không được kích thích. Một công cụ tài chính tương tự đã được sử dụng trong gói viện trợ của Kế hoạch Marshall nhằm tái thiết Tây Âu sau sự tàn phá trong Thế chiến thứ hai. Một nhà kinh tế học người Mỹ từng mô tả CIP là "phát minh vĩ đại nhất kể từ lúc bánh xe ra đời". Tuy vậy, chương trình này được ghi nhận là đã làm thay đổi ngành dệt may khi 25.000 máy may được nhập khẩu ngay trong năm đầu tiên hoạt động.
Phan Quang Đán, vị chính khách đối lập chống cộng, đối thủ nổi bật nhất của Diệm, và là một trong hai nhà bất đồng chính kiến duy nhất giành được một ghế trong cuộc bầu cử quốc hội lập pháp năm 1959 nhưng bị Diệm cầm tù và cấm đảm nhận chức vụ, nói rằng "Chương trình Nhập khẩu Thương mại của Mỹ—mà chúng ta không tốn một xu nào—mang lại đủ loại hàng hóa xa xỉ trên quy mô lớn, đưa đến cho chúng ta một xã hội nhân tạo—những điều kiện vật chất được nâng cao chẳng để lại ý nghĩa gì cả và không có sự hy sinh; nó mang lại sự xa hoa cho nhóm cầm quyền và tầng lớp trung lưu của chúng ta, và sự xa hoa đồng nghĩa với tệ nạn tham nhũng".
Một trong những tác động chính trị của việc truyền ồ ạt vào nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa là mở rộng tầng lớp trung lưu thành thị và giảm bớt áp lực lên chính phủ trong việc thu thuế. Điều này là do chính phủ đã đặt ra thuế nhập khẩu cao, thực tế bằng 50% tỷ giá hối đoái giảm giá được sử dụng theo CIP; các quỹ này cũng là một phần của doanh thu thông thường và không chịu sự giám sát của Mỹ, không giống như chính sách quỹ đối giá. Một báo cáo năm 1959 kết luận rằng nếu CIP không có hoặc bị pha loãng ở mức kinh tế cân bằng, thì mức sống giảm sút tạo ra "vấn đề chính trị nghiêm trọng" do sự ủng hộ của chính phủ đối với những nhóm thiểu số thành thị bị xói mòn. Ngô Đình Nhu cũng nhiều lần công khai chỉ trích chính sách xem xét lại khi trích dẫn một số khoản đầu tư vào cơ sở hạ tầng tư nhân đã bị giới quản lý người Mỹ chặn đứng.
Dù cho thực tế CIP có tác dụng xây dựng cơ sở tầng lớp trung lưu thành thị cho chế độ của ông thông qua sự phát triển của hàng tiêu dùng, Diệm không hài lòng với tình hình này, lo ngại những tác động bất lợi lâu dài mà việc thiếu đầu tư vào hàng hóa cơ bản gây ra đối với đất nước của mình.
Theo thời gian, các nhà kinh tế trong chính quyền Eisenhower trở nên thất vọng với việc Diệm từ chối phá giá đồng piastre một khi Việt Nam Cộng hòa đã trở thành một quốc gia ổn định. Diệm từ chối đưa ra tỷ giá hối đoái CIP tương đương với tỷ giá hối đoái trên thị trường tự do cho hai đồng tiền này. Mặc dù tỷ giá hối đoái cố định có nghĩa là người Mỹ đang tài trợ rất nhiều cho nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa và các công ty nhập khẩu có thể kiếm được nhiều hàng hóa hơn bằng tiền của họ, nhưng tỷ giá này cũng có nghĩa là hàng hóa Việt Nam Cộng hòa sẽ không có tính cạnh tranh kinh tế trên thị trường xuất khẩu. Diệm không muốn tỷ giá tiền tệ, được cố định ở mức 35 piasters đổi một đô la Mỹ, cho rằng điều đó sẽ làm giảm giá trị viện trợ của Mỹ cho Việt Nam Cộng hòa và làm suy yếu sự ủng hộ của tầng lớp trung lưu thành thị đối với chế độ của ông vì họ phẫn nộ do để mất đi hàng tiêu dùng giá rẻ và hàng xa xỉ của mình. Qua cuộc tiếp kiến ở Washington trong chuyến thăm cấp nhà nước năm 1957, Diệm nói với Ngoại trưởng John Foster Dulles và Đại sứ Elbridge Durbrow rằng phá giá sẽ gây ra hoảng loạn, và một động thái như vậy là không thể thực hiện được ở một quốc gia có sản lượng thấp như Việt Nam.
Ngày 5 tháng 10 năm 1963, CIP đã bị Hoa Kỳ đình chỉ một thời gian ngắn sau phái bộ McNamara–Taylor, một chuyến đi tìm hiểu thực tế tình hình miền Nam Việt Nam do Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara và Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, Tướng Maxwell D. Taylor tiến hành để điều tra tiến trình trong cuộc chiến chống nổi dậy của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Báo cáo kết luận rằng Diệm không tập trung vào việc chống nổi dậy mà thay vào đó bận tâm đến việc dập tắt các cuộc biểu tình đòi bình đẳng tôn giáo của Phật giáo, chẳng hạn như đột kích chùa chiền và xả súng vào những Phật tử bất đồng chính kiến. Một trong những lý do dẫn đến việc đình chỉ CIP là để gửi tín hiệu cho giới sĩ quan quân đội rằng Washington không hài lòng với Diệm và do vậy làm tăng khả năng xảy ra một cuộc đảo chính, cũng như cố gắng thúc đẩy sự phẫn nộ của người dân thành thị đối với Diệm trong số những kẻ trước đây từng được hưởng lợi từ CIP. Một vấn đề khác là Diệm có thể thay đổi đường lối chính sách của mình phù hợp với mong muốn của Mỹ dù họ cho rằng điều này khó có thể xảy ra.
CIP tiếp tục cho đến khi chính thể Việt Nam Cộng hòa tan rã vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi quân đội cộng sản tràn vào miền Nam Việt Nam kể từ lúc người lính Mỹ rút lui sau thỏa ước đình chiến năm 1973.