✨Chiến dịch tấn công Uman–Botoşani
Chiến dịch tấn công Uman–Botoşani hay Chiến dịch tấn công Uman-Botoshany
Chiến dịch này có quy mô lớn về binh lực của hai bên Liên Xô và Đức tại giai đoạn hai của các hoạt động quân sự ở Tây Ukraina năm 1944, chỉ xếp sau chiến dịch Proskurov-Chernovtsy nhưng có diện tích hoạt động lớn nhất trong tất cả các chiến dịch thuộc giai đoạn này. Ở phía Bắc, từ Rizino - Tynovka đến Redeutsi (Radauti) - Botoşani với cự ly 450 km. Ở phía Nam, từ Novgorodka đến Duboşary có cự ly 350 km. Quân đội Liên Xô đã giải phóng hoàn toàn các tỉnh Trung-Tây Ukraina và phần phía Bắc của Moldova, tương đương với diện tích lãnh thổ được giải phóng tại Byelorussia mấy tháng sau đó. Đây cũng là chiến dịch có tốc độ tấn công cao nhất của quân đội Liên Xô tại Tây Ukraina, mặc dù phải vượt qua ba con sông trong hành tiến, trong đó có sông Dniestr lớn thứ nhì Ukraina nhưng tốc độ tấn công của Quân đội Liên Xô vẫn đạt trung bình 13 km/ngày (kể cả những ngày tạm dừng chiến thuật).
Chiến dịch còn có nhiệm vụ sử dụng cánh phải phối hợp với Phương diện quân Ukraina 1 hợp vây và tiêu diệt tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) tại "lòng chảo" Kamenets-Podolsky. Tuy nhiên, do nhiệm vụ này không được coi trọng chỉ đạo nên các đơn vị cánh phải của Phương diện quân đã đến điểm hợp vây tại Khotyn muộn ba ngày. Và họ hầu như không đóng góp gì đáng kể vào việc hợp vây Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức), mặc dù quân Đức không chạy thoát về hướng Tây Nam, hướng tiến quân của Phương diện quân. Trong khi đó, cánh trái của Phương diện quân đã làm tốt nhiệm vụ hỗ trợ cho Phương diện quân Ukraina 3 tiến hành thành công Chiến dịch tấn công Bereznegovatoye–Snigirevka và Chiến dịch tấn công Odessa, đánh bại Tập đoàn quân 6 (Đức) và cùng tiến ra biên giới Liên Xô-Romania. Kết thúc chiến dịch này, Phương diện quân Ukraina 2 là đơn vị đầu tiên của quân đội Liên Xô bắt đầu các hành động quân sự trên lãnh thổ nước ngoài tại mặt trận Xô-Đức. Liên quân Đức-Romania giữ được thế trận phòng ngự giằng co tại cửa ngõ Balkan trong hơn 2 tháng sau đó, khi quân đội Liên Xô tập trung binh lực lên trung tâm chiến trường Xô-Đức, mở Chiến dịch Bagration, đánh bại hoàn toàn Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức).
Tình huống mặt trận
Tập đoàn quân 8 (Đức) vốn là một tập đoàn quân mạnh, thực thi nhiệm vụ phòng ngự chiến lược ở Trung - Tây Ukraina cuối năm 1943, đầu năm 1944. Nhưng sau Chiến dịch Korsun-Shevchenkovsky, thế và lực của Tập đoàn quân này đã suy yếu đáng kể. Chưa tính đến hơn 47.000 quân bị loại khỏi vòng chiến bên trong "cái chảo" Korsun-Shevchenkovsky, việc Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) lấy đi của họ 3 sư đoàn xe tăng và 2 sư đoàn cơ giới để tăng cường cho Tập đoàn quân xe tăng 1 đã làm cho Tập đoàn quân 8 không còn duy trì được sức chống cự mạnh như trong chiến dịch Kirovograd. Từ Gaisin qua Uman đến Rovnoye, những cứ điểm phòng ngự từ xa của Tập đoàn quân 8 (Đức) bên tả ngạn sông Nan Bug, binh lực đã mỏng đi rất nhiều. Trên nhiều địa đoạn rộng hàng chục km chỉ có một sư đoàn bộ binh trấn giữ. Trong khi đó, những con đường sắt từ Pervomaisk đi Mala Viska ở phía Nam và Ladyzhin đi Talnoye ở phía Bắc rất quan trọng trong việc tiếp tế cho các cụm chốt phòng thủ từ xa luôn bị các đội du kích và không quân Liên Xô đánh phá.
Quân đội Liên Xô tuy có bị thiệt hại trong cuộc hợp vây tại Korsun-Shevchenkovsky nhưng đã phục hồi nhanh chóng nhờ các nguồn tăng viện từ hậu phương của họ. Việc tiếp nhận Tập đoàn quân xe tăng 2 trong quá trình chiến dịch Korsun-Shevchenkovsky đã làm cho Phương diện quân Ukraina 2 trở thành phương diện quân có sức đột kích mạnh với 3 tập đoàn quân xe tăng, tương đương với "người láng giềng" là Phương diện quân Ukraina 1 bên cánh phải của họ. Do được bổ sung kịp thời về quân số và trang bị, Phương diện quân này vẫn chiếm ưu thế hơn Tập đoàn quân 8 (Đức) 1,5:1 về người, 1,3:1 về xe tăng và pháo tự hành, 2,5:1 về pháo binh và hơn 10% về không quân. Tuy ưu thế này chưa đủ để tổ chức tấn công áp đảo nhưng vẫn bảo đảm đột phá nhanh vào Tập đoàn quân 8 (Đức) ở những địa đoạn quan trọng với những "cửa mở tự nhiên" do các chi lưu của các sông Nam Bug, Dniestr tạo ra và do việc bố trí tập trung binh lực trên hướng tấn công chính. Ngày 18 tháng 2 năm 1944, Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh tối cao Liên Xô chỉ thị vắn tắt:
Trong khi thực hiện nhiệm vụ trên, Đại bản doanh yêu cầu Phương diện quân Ukraina 2 phải sử dụng ít nhất một tập đoàn quân bộ binh cùng một tập đoàn quân xe tăng tấn công trên cánh phải và song hành với cánh trái của Phương diện quân Ukraina 1 nhằm khép vòng vây xung quanh Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) từ phía Nam. Cánh trái của Phương diện quân có nhiệm vụ che chắn sườn phải cho Phương diện quân Ukraina 3 tiến hành Chiến dịch Bereznegovatoye–Snigirevka ở cùng thời điểm. Đại bản doanh đặc biệt lưu ý các phương diện quân khi tấn công phải xiết chặt đội hình ở các bên sườn, không được để cho quân Đức lợi dụng các kẽ hở để phản đột kích. Vượt sông Dniestr là mục tiêu chiến lược của các tập đoàn quân, phải thực hiện bằng được và nhanh chóng, không cho quân Đức lợi dụng kịp lợi dụng tuyến sông để bố trí phòng ngự vững chắc.
Ngày 25 tháng 2, Đại bản doanh phê chuẩn kế hoạch tấn công của Phương diện quân Ukraina 1 trên những điểm cơ bản như sau Không kể trung đoàn không quân trinh sát, cứu hộ, toàn bộ 279 máy bay ném bom, 163 máy bay cường kích và 109 máy bay tiêm kích của Tập đoàn quân không quân 5 đều được huy động.
Đến ngày 4 tháng 3, các tập đoàn quân bộ binh đã được cung cấp 1,7 đến 2 cơ số xăng dầu, các tập đoàn quân xe tăng cũng được đảm bảo từ 2,6 cơ số xăng và 4,4 cơ số đầu diezel. Số còn lại sẽ được chuyển đến trong quá trình tác chiến. Đạn dược đã tích lũy được 8 cơ số đạn pháo, 5 cơ số đạn pháo tăng và 3,5 cơ số đạn các loại khác. Khoảng 2.590 ô tô, 550 xe ngựa và 5.400 nhân lực vận chuyển đã được huy động để bảo đảm cung cấp đạn dược, xăng dầu, lương thực thực phẩm và vận chuyển thương binh cho các tập đoàn quân trong suốt quá trình chiến dịch.
Đây là một trong các chiến dịch tấn công được Quân đội Liên Xô chuẩn bị rất kỹ lưỡng trong thời gian không quá 15 ngày. Thế nhưng Nguyên soái I. S. Konev vẫn có thể khai chiến trước 1 ngày, ngày 5 tháng 3 chứ không phải ngày 6 như kế hoạch. Vì theo ông: "Không thể để cho quân Đức có dư lấy một ngày nghỉ ngơi mà tổ chức phòng ngự".
Quân đội Đức Quốc xã
Binh lực
Một phần của Cụm Tập đoàn quân Nam do Thống chế Erich von Manstein làm tư lệnh, đến ngày 31 tháng 3, được Hitler thay thế bởi thống chế Walther Model.
Tập đoàn quân 8 của thượng tướng bộ binh Otto Wöhler có các quân đoàn cánh phải tham gia chiến dịch: *Quân đoàn đoàn xe tăng 40 của trung tướng xe tăng Otto von Knobelsdorff, biên chế có: Sư đoàn xe tăng 3 của đại tá Rudolf Lang gồm các trung đoàn xe tăng 3, 6, 394; Tiểu đoàn xe tăng hạng nặng 543; Lữ đoàn cơ giới 3; Trung đoàn pháo tự hành 75; Trung đoàn pháo binh 314; Trung đoàn súng cối 83, Tiểu đoàn bộ binh mô tô 39, Tiểu đoàn trinh sát cơ giới 5. Sư đoàn xe tăng 14 của trung tướng Martin Unrein gồm các trung đoàn xe tăng 36, 103, 108; Tiểu đoàn xe tăng hạng nặng 14; Trung đoàn pháo tự hành 4; Trung đoàn cơ giới 4; Trung đoàn pháo binh 274; Trung đoàn súng cối cơ giới 4; Tiểu đoàn trinh sát cơ giới 4; Tiểu bộ binh cơ giới 13. Sư đoàn bộ binh 167 (tái lập từ khung và quân số của Cụm tác chiến Sư đoàn bộ binh 376) của trung tướng Otto Schwarz, gồm các trung đoàn bộ binh 672, 673; Trung đoàn pháo binh 376; các tiểu đoàn pháo tự hành, pháo chống tăng, cơ giới, súng cối, trinh sát. *Quân đoàn bộ binh 47 (cải tổ từ Quân đoàn xe tăng 47) của trung tướng xe tăng Hans Freiherr von Funck. Biên chế có: Sư đoàn bộ binh 106 của đại tá Rintenberg, gồm các trung đoàn bộ binh 113, 230, 240; Trung đoàn pháo binh 107, Tiểu đoàn cơ giới 106; các tiểu đoàn pháo chống tăng, súng cối và trinh sát. Sư đoàn bộ binh 282 của thiếu tướng Hermann Frenking gồm các trung đoàn bộ binh 848, 849, 850, Trung đoàn pháo binh 282, các tiểu đoàn cơ giới, súng cối, pháo chống tăng và trinh sát. *Sư đoàn bộ binh 320 của trung tướng Georg-Wilhelm Postel, gồm các trung đoàn bộ binh 585, 586, 587, Trung đoàn pháo binh 320, các tiểu đoàn cơ giới, súng cối, pháo chống tăng và trinh sát. Quân đoàn bộ binh 7 của trung tướng pháo binh Ernst-Eberhard Hell. Trong biên chế có: Sư đoàn xe tăng SS "Totenkopf" của tướng SS Max Simon gồm các trung đoàn xe tăng SS 1, 2, 3 Totenkopf; Trung đoàn cơ giới "Thule", các trung đoàn pháo binh, pháo chống tăng, các tiểu đoàn súng cối, trinh sát, bộ binh mô tô. Sư đoàn bộ binh 198 của thiếu tướng Alfred Kuhnert gồm các trung đoàn bộ binh 305, 308, 328; Trung đoàn pháo binh 235; Tiểu đoàn cơ giới 235, các tiểu đoàn súng cối, pháo chống tăng và trinh sát. Sư đoàn bộ binh 62 của thiếu tướng Louis Tronnier gồm các trung đoàn bộ binh 112, 179, 415, Trung đoàn pháo binh 162, các tiểu đoàn cơ giới, súng cối, pháo chống tăng và trinh sát.
Tập đoàn quân 6 của thượng tướng Karl-Adolf Hollidt, đến ngày 8 tháng 4 được thay bằng trung tướng pháo binh Maximilian de Angelis, có các đơn vị cánh phải tham gia chiến dịch: Quân đoàn bộ binh 52 của tướng Rudolf von Bünau, đến ngày 1 tháng 4 được thay thế bởi tướng Erich Buschenhagen. Biên chế có: Sư đoàn bộ binh 384 của trung tướng Hans de Salengre-Drabbe gồm các trung đoàn bộ binh 354, 535, 536, Trung đoàn pháo binh 384, các tiểu đoàn cơ giới, súng cối, pháo chống tăng và trinh sát. Sư đoàn bộ binh sơn chiến 4 của trung tướng Julius Braun gồm các trung đoàn bộ binh sơn chiến 13, 91, 94; Trung đoàn cơ giới 94, Trung đoàn pháo binh; các tiểu đoàn súng cối, pháo chống tăng và trinh sát. Sư đoàn xe tăng 13 của trung tướng Hans Mikosch gồm các trung đoàn xe tăng 4, 66, 93; Trung đoàn pháo tự hành 13, Trung đoàn pháo binh 4; các tiểu đoàn súng cối, pháo chống tăng và trinh sát. Sư đoàn đổ bộ đường không 2 của thiếu tướng Hans Kroh gồm các trung đoàn dù 2, 6, 23; Trung đoàn cơ giới 2; Trung đoàn pháo tự hành 7, các tiểu đoàn súng cối, pháo chống tăng và trinh sát. Quân đoàn bộ binh 4 của thượng tướng xe tăng Erich Brandenberger. Trong biên chế có: Sư đoàn xe tăng 24 của Trung tướng Maximilian Freiherr von Edelsheim, gồm các trung đoàn xe tăng 21, 24, 26; Trung đoàn pháo binh 89, Trung đoàn pháo tự hành 40, Tiểu đoàn trinh sát cơ giới 40, Tiểu đoàn chống tăng 24, Tiểu đoàn phòng không 283. Sư đoàn bộ binh 9 của Trung tướng Frederick Hofmann, gồm các trung đoàn bộ binh 36, 57, 116, Trung đoàn pháo binh 9, các tiểu đoàn cơ giới, súng cối, pháo chống tăng và trinh sát. Sư đoàn bộ binh 17 của đại tá Otto-Hermann Brücker, gồm các trung đoàn bộ binh 21, 55, 95; Trung đoàn pháo binh 17, các tiểu đoàn cơ giới, súng cối, pháo chống tăng và trinh sát. Sư đoàn bộ binh 335 của trung tướng Siegfried Rasp, gồm các trung đoàn bộ binh 682, 683, 684; Trung đoàn pháo binh 335, các tiểu đoàn cơ giới, súng cối, pháo chống tăng và trinh sát.
Tập đoàn quân không quân số 4 của thượng tướng Otto Dessloh.
Tổng cộng các đơn vị gồm 22 sư đoàn (bao gồm 4 sư đoàn thiết giáp và 2 sư đoàn cơ giới hóa) với 400.000 quân. Trang bị gồm 450 xe tăng và pháo tự hành 3.500 đại bác và súng cối, 500 máy bay.
Tập đoàn quân 4 Romania (còn gọi là Cụm tác chiến Kirchner do trung tướng xe tăng Friedrich Kirchner, tư lệnh Quân đoàn xe tăng 57 (Đức) chỉ huy, trung tướng Popesku (Romania) làm phó tư lệnh; tham gia giai đoạn ba của chiến dịch và các diễn biến sau đó. Tập đoàn quân được biên chế hỗn hợp các đơn vị Đức và Romania: Quân đoàn bộ binh 6 (Romania) gồm các sư đoàn bộ binh 5, 13; các sư đoàn bộ binh 46 và 76 (Đức). Quân đoàn bộ binh 5 (Romania) gồm các sư đoàn bộ binh Romania 1 và 4. Quân đoàn bộ binh 1 (Romania) gồm các sư đoàn bộ binh Romania 6 và 20. Quân đoàn bộ binh 7 Romania gồm các lữ đoàn bộ binh Romania 101, 102, 103. *Quân đoàn bộ binh 17 (Đức) gồm các sư đoàn bộ binh 3, 8 và quân biên phòng Romania.
Phương án phòng thủ
Khác với tướng Hans-Valentin Hube, tướng Otto Wöhler nhận thức được nguy cơ bị tấn công bất kỳ lúc nào cũng như thực trạng các sư đoàn của ông ta sau các trận đánh ở Korsun-Shevchenkovsky nên đã có cách bố trí quân hợp lý hơn Tập đoàn quân xe tăng 1. Theo chỉ dẫn của Thống chế Erich von Manstein, tướng Otto Wöhler chia mặt trận phòng ngự của Tập đoàn quân 8 thành bốn tuyến. Tuyến tiền tiêu gồm các cứ điểm phòng thủ dọc sông theo các con sông Gornyi Tikich và Bolsaya Vys. Cụm cứ điểm Uman là trung tâm chỉ huy của tuyến này. Tuyến thứ hai là tuyến chính, với 4 cụm cứ điểm và hơn 30 cứ điểm lẻ dọc sông Nam Bug với bốn trung tâm quan trọng là Vapnyarka, đầu mối đường sắt Kotovsk, Pervomaisk và Konstantinovka. Tuyến thứ ba dọc theo sông Dniestr, lấy Bălţi làm trung tâm chỉ huy với các cụm cứ điểm được chuẩn bị sẵn nếu phải rút về tại Mogilev Podolsk, Soroki (Soroca), Kamenka (Camenca), Rybnitsa, Orgeev. Tuyến cuối cùng là sông Prut với trung tâm phòng ngự tại Iaşi. Bốn tuyến phòng thủ này có thể làm chậm đà tấn công của quân đội Liên Xô để thực hiện một cuộc rút lui có kế hoạch nhằm bảo toàn những lực lượng còn lại của Tập đoàn quân 8 trong chờ tăng viện từ tuyến sau và từ nước Đức.
Ngày 6 tháng 3. Bộ tư lệnh Phương diện quân tung các tập đoàn quân xe tăng 2 và cận vệ 5 vào trận. Cánh quân xung kích của Tập đoàn quân xe tăng 2 gồm 174 xe tăng và 57 pháo tự hành tấn công theo cửa mở do Tập đoàn quân 27 đột phá được đã đánh tràn đến sông Gornyi Tikich, giao chiến trực diện với Sư đoàn xe tăng 3 (Đức) đang chống giữ thị trấn Talnoye và cây cầu đường sắt tại đây. Cánh quân xung kích của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 có 169 xe tăng và 27 pháo tự hành đã đột phá đến Veselyi Kut - Sokolovochka và giao chiến ác liệt với Sư đoàn xe tăng 14 (Đức) ở cửa sông Gornyi Tikich - Sinyukha.
Vượt sông Dniestr
Sông Nam Bug là một trong hai tuyến phòng thủ chính của Tập đoàn quân 8 (Đức). Ngày 10 tháng 3, Berlin ra lệnh vắn tắt cho tướng Otto Wöhler:
Ngày 11 tháng 3, Đại bản doanh Liên Xô có chỉ lệnh mới cho Phương diện quân Ukraina 2:
Sau hai ngày chuẩn bị, 3 giờ sáng 13 tháng 3, trận vượt sông Nam Bug đầu tiên được tổ chức ở Ladyzhin. Các sư đoàn bộ binh cận vệ 41 và 62 của Tập đoàn quân cận vệ 4 phối hợp với các Lữ đoàn cơ giới 15 và 57 (Tập đoàn quân xe tăng 2) đã sử dụng các bến vượt được tạo bởi các thuyền bè kết lại và vượt sông thành công gần cây cầu đường sắt vừa bị quân Đức phá hủy ngày 11 tháng 3. 7 giờ sáng, cả hai lữ đoàn cơ giới và 2 sư đoàn bộ binh đã có mặt ở hữu ngạn và tấn công Ladyzhin. Sư đoàn bộ binh 198 (Đức) hoàn toàn bị bất ngờ, phải vừa đánh vừa lùi khỏi Ladyzhin. 14 giờ cùng ngày, toàn bộ Quân đoàn bộ binh cận vệ 20 đã sang sông và nhanh chóng mở rộng căn cứ đầu cầu. Ngày 15 tháng 3, các lữ đoàn cơ giới 15, 57 và trung đoàn xe tăng 156 (tăng viện) đã tấn công, đánh chiếm Vapnyarka, một ngã ba đường sắt quan trọng ở phía Tây sông Nam Bug 45 km. Đến ngày 16 tháng 3, trừ hai tập đoàn quân cận vệ 5 và 7 đang tấn công Pervomaisk, các tập đoàn quân của Phương diện quân đều vượt sông trong hành tiến. Ngày 17 tháng 3, sau khi được bổ sung xe tăng và các tổ lái, Quân đoàn xe tăng cận vệ 20 được điều động cho Tập đoàn quân xe tăng 6 đã đến mặt trận và ngay lập tức cùng Tập đoàn quân 40 đột kích vào Mogilev-Podolskiy. Các lữ đoàn cơ giới 15 và 57 sau khi đón gặp Tập đoàn quân 27 vượt sang ở phía Nam Ladyzhin đã đột kích về hướng Yampol-Dniestr.
Nhận thấy Quân đội Liên Xô đã tiến vào lãnh thổ Moldova; các mũi tiến công của phương diện quân Ukraina 1 và 2 đã chia cắt Cụm Tập đoàn quân Nam (Đức) thành hai mảnh; Tập đoàn quân 8 của Đức đã bị chia cắt khỏi Tập đoàn quân xe tăng 1 và cuối cùng được phiên chế vào Cụm Tập đoàn quân A; I. V. Stalin cho rằng đối tượng mới của Phương diện quân Ukraina 2 lúc này chính là Cụm Tập đoàn quân A hiện đang bị Phương diện quân Ukraina 3 bao vây ở Bereznegovatoye – Snigirevka. Ông gợi ý với I. S. Konev rằng một cơ hội mở ra cho Phương diện quân Ukraina 2 khi họ có thể mở một đòn tấn công tại hướng Nam để cắt đứt đường lui của Cụm tập đoàn quân A phía bên kia Dniester và cùng với Phương diện quân Ukraina 3 tiêu diệt nó. Tuy nhiên, diễn biến trên chiến trường đã vượt ra ngoài dự đoán của I. V. Stalin.
Tình hình ở cánh Nam của Phương diện quân Ukraina 2 bắt đầu diễn biến phức tạp. Ngày 1 tháng 4, các tập đoàn quân xe tăng 2 và 6 (Liên Xô) phải rất vất vả mới chiếm được trung tâm phòng ngự Bălţi rất mạnh do ba sư đoàn xe tăng Đức đóng giữ. Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 đã suy yếu không thể tiến về Chişinău như kế hoạch mà phải hỗ trợ cho Tập đoàn quân 52 khép chặt sườn trái với Tập đoàn quân cận vệ 4. Để cứu vãn tình hình, 18 sư đoàn và 3 lữ đoàn Đức - lực lượng dự bị chiến lược cuối cùng của quân Đức trong khu vực Balkan đã được đưa đến chiền trường. Trước tình hình quân Đức được tăng viện và sức kháng cự của họ tăng dần lên, vào thượng tuần tháng 4 năm 1944, Quân đội Liên Xô chuyển sang phòng ngự dọc theo khu vực Dubăsari, phía bắc Iaşi, và cách 60 cây số về phía Nam Botoşani. Trên hướng này, Tập đoàn quân 8 (Đức) đã tổ chức phòng thủ thành công khi đưa đến đây 4 sư đoàn xe tăng và 1 sư đoàn cơ giới. Mặt trận của Phương diện quân Ukraina 2 cũng bị chia đôi. Cánh Bắc đã ở hữu ngạn sông Prut và tác chiến trên lãnh thổ Romania - Moldova. Cánh Nam, trong đó có ba tập đoàn quân xe tăng vẫn còn ở bên tả ngạn sông Prut và phải đối phó với các đòn phản công sắp tới của quân Đức.
Ngày 9 tháng 4, Quân đoàn bộ binh 35 (Tập đoàn quân 27) tấn công vào các thị trấn Hârlǎu. Sư đoàn bộ binh cận vệ 42 (Tập đoàn quân 40) đánh chiếm Paşcani. Các sư đoàn bộ binh 1 và 6 Romania phòng thủ tại đây đều bị đánh bại nhanh chóng. Quân đoàn bộ binh 35 chiếm được khu bàn đạp Podu Iloaiei có chiều rộng 11 km, chiều sâu 4,5 km. Như thường lệ, xe tăng Liên Xô được đưa ngay đến căn cứ bàn đạp vừa chiếm được. Ngày 10 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng 2 (Liên Xô) tổ chức đột phá trên bờ Đông sông Prut và đánh chiếm Targu Frumos. Ngày 11 tháng 4, Sư đoàn xe tăng SS "Grossdeutschland" gồm 160 xe tăng, kể cả 40 xe tăng Panther và 40 xe tăng Tiger I đã tổ chức phản công. Với số lượng xe tăng áp đảo, Sư đoàn "Grossdeutschland" đã đánh bật Tập đoàn quân xe tăng 2 (Liên Xô) về phía Bắc từ 8 đến 11 km, chiếm lại bàn đạp Podu Iloaiei và cô lập cánh quân bộ binh Liên Xô gồm các sư đoàn bộ binh 93, 206 và Sư đoàn đổ bộ đường không 3 hiện đang có mặt tại Targu Frumos. Các quân đoàn bộ binh 1 và 7 Romania cũng liên tục vây ép ba sư đoàn Liên Xô. Ngày 12 tháng 3, Quân đoàn xe tăng 20 (Liên Xô) được điều đến cửa đột phá, mở đường cho 3 sư đoàn Liên Xô thoát vây. Sau trận đánh, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô tiếp tục rút Tập đoàn quân xe tăng 2 khỏi mặt trận để trang bị lại và điều nó đến hướng Lvov - Kovel
Kết quả, đánh giá và ảnh hưởng
Kết quả
Chiến dịch Uman-Botoşani là một thắng lợi lớn của Hồng quân Liên Xô với việc Tập đoàn quân số 8 của Đức gần như bị đánh tan với hơn nửa quân số thương vong, cánh phải của Tập đoàn quân 6 (Đức) cũng bị thiệt hại và Tập đoàn quân xe tăng 1 bị hủy diệt một phần. Do mặt trận của Cụm Tập đoàn quân Nam (Đức) đã bị xẻ làm đôi, ngày 17 tháng 3, OKH phải tổ chức lại nó thành Cụm Tập đoàn quân Nam Ukraina (chỉ huy: Ferdinand Schörner) và Cụm Tập đoàn quân Bắc Ukraina (chỉ huy: Walter Model). Mười sư đoàn Đức Quốc xã bị mất từ 50 đến 75% quân số cùng phần lớn các loại trang bị nặng. Theo Văn phòng thông tin Liên Xô (Sovinform), thiệt hại của quân Đức là 118.403 người chết, 27.393 người bị bắt, 165 máy bay, 688 xe tăng và pháo tự hành, 5.600 ôtô, 2.830 đại bác, 2.994 súng cối cùng với nhiều phương tiện vũ khí khác.
Tuy nhiên, chính phủ Antonescu đã bác bỏ dự thảo thỏa thuận này và tiếp tục đứng về phía nước Đức Quốc xã. 18 sư đoàn Đức được đưa vào Romania để cùng với 2 tập đoàn quân Romania chống lại quân đội Liên Xô. Chính quyền Romania bị chia rẽ thành 2 phái. Phái chủ hòa do Vua Mihai I đứng đầu được các lực lượng cánh tả Romania ủng hộ yêu cầu chấm dứt chiến tranh và đứng về phía Đồng minh. Phái chủ chiến do Thống chế - Thủ tướng Ion Antonescu cầm đầu tiếp tục hợp tác với nước Đức Quốc xã chống lại Liên Xô và đồng minh.
Tại Hungary, chính quyền thân Đức đã ra lệnh tổng động viên toàn quốc. Quân đoàn Hungary được cải tổ thành Tập đoàn quân Hungary đặt dưới sự chỉ huy của các tướng lĩnh Đức. Ngày 19 tháng 3, 12 sư đoàn Đức tiến vào Hungary để chuẩn bị tác chiến trên tuyến 2 của Cụm Tập đoàn quân Bắc Ukraina. Tại Slovakia, các lực lượng kháng chiến chống Đức Quốc xã cũng xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa. Ngày 10 tháng 4 năm 1944, tại Chernovtsy, Lữ đoàn độc lập Tiệp Khắc 1 đã được tổ chức lại thành Quân đoàn Tiệp Khắc một trong thành phần Phương diện quân Ukraina 1 (Liên Xô).
Việc quân đội Liên Xô tiến đến cửa ngõ Balkan cũng làm cho chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu thay đổi thái độ. Họ giảm dần mức độ quan hệ với nước Đức Quốc xã. Tháng 4 năm 1944, Thổ Nhĩ Kỳ cắt nguồn cung cấp quặng Crom cho nước Đức Quốc xã. Tháng 6 năm 1944, họ bắt giữ hai tàu chiến Đức đang đi qua eo biển Dardanelles và đến ngày 2 tháng 8 năm 1944, Thổ Nhĩ Kỳ tuyên bố cắt đứt hoàn toàn quan hệ với nước Đức Quốc xã.
Về quân sự
Chiến dịch Uman–Botoşani đã tạo điều kiện cho Phương diện quân Ukraina 3 hoàn thành việc giải phóng Odessa. Trong khi các tập đoàn quân cánh phải của Phương diện quân Ukraina 3 còn đang bị kẹt lại ở hạ lưu sông Nam Bug 8 ngày sau khi thực hiện Chiến dịch tấn công Bereznegovatoye–Snigirevka thì các tập đoàn quân cận vệ 5 và 7 vẫn hoàn thành nhiệm vụ đánh chiếm Pervomaisk và tự yểm hộ cánh trái cho mình. Họ đã giúp Tập đoàn quân 57 đánh chiếm Konstantinovka và tổ chức vượt sông, đánh chiếm các đầu cầu, giúp Cụm kỵ binh cơ giới Pliev và Quân đoàn xe tăng 23 có điều kiện thuận lợi để vượt sông và triển khai chiến dịch Odessa.
Chiến dịch này cùng với Chiến dịch Krym (1944) đã đưa đến một hệ quả khác về quân sự là việc thay đổi tướng lĩnh chỉ huy của các bên. Nguyên soái I. S. Konev được điều đến chỉ huy Phương diện quân Ukraina 1 thay Nguyên soái G. K. Zhukov trở về với cương vị Phó Tổng tư lệnh tối cao. Đại tướng R. Ya. Malinovsky từ Phương diện quân 3 đến thay I. S. Konev. Đại tướng F. I. Tolbukhin thay R. Ya. Malinovsky chỉ huy Phương diện quân Ukraina 3. Trong quá trình chiến dịch Krym, Phương diện quân Ukraina 4 được thu gọn lại thành Tập đoàn quân độc lập Duyên hải. Bộ khung chỉ huy của nó được điều đến mặt trận trung tâm để thành lập Phương diện quân Byelorussia 2 (lần thứ hai). Phía Đức Quốc xã cũng có những thay đổi. Ban đầu, tướng Ferdinand Schörner chỉ huy Cụm tập đoàn quân Nam Ukraina. Nhưng đến 20 tháng 7 năm 1944, ông này được điều đến chỉ huy Cụm tập đoàn quân Bắc đổi chỗ cho tướng Johannes Frießner đến chỉ huy Cụm Tập đoàn quân Nam Ukraina.
Nhiều quân đoàn, sư đoàn Đức bị thiệt hại nặng đã làm cho Bộ Tổng tư lệnh Lục quân Đức phải rút ra, tái trang bị, phục hồi và bố trí lại lực lượng. Quân đoàn bộ binh 47 được rút về lực lượng dự bị, được tổ chức lại thành Quân đoàn xe tăng 47 và bố trí ở Normandy (Bắc Pháp). Quân đoàn xe tăng 40 sau khi tái trang bị được điều đến Cụm tập đoàn quân Trung tâm. Tháng 4 năm 1944, Quân đoàn bộ binh 4 bị thiệt hại nặng phải giải thể. Đến ngày 10 tháng 10 bộ khung của nó được cải tổ và tái trang bị thành Quân đoàn xe tăng 4 bố trí ở Budapest.
Tình huống chia cắt đã buộc Bộ Tổng tư lệnh Lục quân Đức phải rút bớt quân ở Balkan để ném ra tuyến biên giới Romania đã tạo điều kiện cho Quân đội giải phóng Nam Tư của Nguyên soái Josip Broz Tito đẩy mạnh chiến tranh du kích và giải phóng nhiều vùng thuộc Serbia, Khrvatya, Hersegovina và Bosnia.
Các nước đồng minh Anh, Mỹ cũng bắt đầu quan tâm đến tình hình Balkan và tăng cường hơn các quan hệ với quân đội Liên Xô cũng như các lực lượng kháng chiến. Lính biệt kích Anh đã đổ bộ lên Hy Lạp và bắt đầu giúp đỡ quân kháng chiến vùng Macedonia. Không quân Mỹ bắt đầu các cuộc ném bom xuống Ploiești, Bucarest, Athens. Hải quân Anh cũng đồng ý cho quân đội Liên Xô sử dụng sân bay dã chiến tại Bari (Ý) trong việc thực hiện các phi vụ ném bom đường dài và tiếp tế cho du kích Nam Tư. Đổi lại, quân đội Liên Xô cũng đồng ý cho không quân Mỹ sử dụng sân bay Poltava để tái trang bị và tiếp nhiên liệu cho các máy bay ném bom tầm xa B-17 thực hiện các phi vụ ném bom xuống nước Đức.